Chủ Nhật, 25 tháng 4, 2010

THÁNG 4-75 XEM PHIM VIỆT CỘNG GIẾT VIỆT NAM, THẾ GIỚI CƯỜI ĐẾN VỠ BỤNG CỨT

Lại một lần nữa nhà nước độc tài toàn trị Cộng Sản Việt Nam tưng bừng phát động cả nước kỷ niệm 30-4-1975 ngày gọi là “Giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước thu giang sơn về một mối ”!!!… (lừa bịp)
Tôi muốn lấy đầu đề bài hát chống cộng khá nổi tiếng và rất quen thuộc “Hãy trả lời tôi” để làm chủ đề của bài viết này. Đây là bài hát tôi rất tâm đắc mà thường nghe và mở cho nhiều người dân quanh làng xóm tôi được cùng nghe trên các trang VN Sydney radio Úc Châu, Đối thoại… Bởi cho đến nay cuộc chiến tranh bạo tàn, ác liệt 2 miền Nam – Bắc do đảng CSVN là thủ phạm phát động đã kết thúc được 35 năm mà người dân Việt Nam vẫn mò mẫm mãi chẳng thấy “ấm no, hạnh phúc, tự do dân chủ” đâu cả, trái lại chỉ thấy đầy rẫy sự bất công, độc đoán bởi nền độc tài cai trị của đảng CS mà thôi !!!
Người dân Việt-Nam nhìn nhận thế nào về cuộc chiến tranh đã chấm dứt được đúng 35 năm qua. Một cuộc chiến tranh như nhiều người đã nhận xét chỉ là: “Cuộc chiến nồi da xáo thịt ” hay “ huynh đệ tương tàn” đẫm máu nhất trong lịch sử đất nước ta… Đây là cuộc chiến gây thảm họa đau thương cho nhân dân cả hai miền Nam Bắc mà hết sức tàn nhẫn và tàn ác nhất. Dù ai phân tích cuộc chiến theo bất kỳ cứ hướng nào; thì thực chất cuộc chiến từ 1954 đến năm 1975 tại Việt Nam là cuộc chiến xẩy ra giữa người Việt của hai miền Nam – Bắc được khởi sự từ tham vọng bành trướng chủ thuyết CS ngoại lai do t Hồ Chí Minh cùng phe đảng CSVN , NGA VA TAU CONG của ông ta gây ra.
Đối với người dân miền Nam thì đây là cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nước nhà khỏi sự xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt; đối với người dân miền Bắc thì lại bị bộ máy tuyên truyền CS (lừa bịp) nhồi sọ cho rằng mình đang tham gia vào một cuộc chiến “giải phóng đồng bào miền Nam anh em ruột thịt ra khỏi sự xâm lăng của Đế Quốc Mỹ và Ngụy quyền tay sai “… vv…!!!…(lừa bịp)
Vì thế dân chúng miền Bắc trong suy nghĩ lúc nào cũng đinh ninh cho mình đang nắm lẽ phải và chính nghĩa !!! Thật là sự nhồi nhét ngu dân kinh khủng nhất mà CSVN đã làm mấy chục năm trường. Còn người dân miền Nam thì đương nhiên phải đứng lên tự vệ để chống lại sự xâm lăng của CS miền Bắc là lẽ dĩ nhiên rồi.
Ngày nay nhìn lại cuộc chiến tranh, nhiều người lính cả hai miền cũng như nhiều người dân Việt Nam đã hiểu, nhìn nhận ra được sự phi lý cùng cực của nó. Như nhiều nhà báo đã viết đây chính là “Cuộc chiến huynh đệ tương tàn”, hay đây chẳng qua là cuộc nội chiến “nồi da xáo thịt” mà thôi. Máu xương của người Việt Nam đã đổ ra trên quê hương Tổ Quốc mình một cách oan uổng, đau thương, uất nghẹn quá nhiều trong hơn 20 năm ròng rã cho đến ngày 30/4/1975. Cho đến nay nhiều người dân Việt Nam hiểu được rằng, cuộc chiến này không phải là sự mong mỏi của cả dân tộc Việt Nam, mà thực chất là cuộc chiến tranh bành trướng của Cộng Sản Quốc Tế với ý đồ nhuộm đỏ toàn thế giới mà trong đó có các nước khu vực Đông Nam Á do ĐCSVN đích thân tiến hành trên chính đất nước thân yêu của mình trước tiên đã.
Những người Cộng Sản Việt Nam đứng đầu là t(lừa bịp) Hồ Chí Minh; người đã từng tuyên bố: “Tôi theo Đảng Cộng Sản khi hầu như chưa biết gì về chủ nghĩa Cộng Sản”. Thế mà họ ra sức tuyên truyền(lừa bịp) cho nhân dân Bắc Việt và sau này là cả Nam Việt về chủ nghĩa Tư Bản chỉ toàn là sự xấu xa, độc ác và bóc lột nhân dân tệ hại hơn cả thời đại Phong Kiến…Nào là “Chủ Nghĩa Tư Bản đang giẫy chết và tự đào hố chôn mình; nào là Chủ Nghĩa Cộng Sản sẽ đưa người dân tới một Thiên Đàng trên mặt đất, ở đó con người có được cuộc sống làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu và sẽ không còn người bóc lột người, không còn giai cấp, không còn nhà nước, mọi người bình đẳng hoàn toàn tự giác sống và làm việc hết mình vv…và v.v…”.
Thực tế người dân Việt Nam đã phải trải qua thời gian dài làm nô lệ, thuộc địa cho thực dân Pháp và chế độ Phong Kiến nên ai cũng mong muốn đất nước mình có độc lập tự do thật sự. Từ những suy nghĩ đơn thuần đó mà người dân Bắc Việt không hề nhận biết được cuộc sống của nhân dân miền Nam dưới thể chế đa đảng Việt Nam Cộng hòa trước kia; họ bị(lừa bịp) tuyên truyền nhồi sọ rồi bị cưỡng bức đưa vào Nam theo lời kêu gọi của Đảng Cộng Sản là: “ Cứu nhân dân miền Nam thoát khỏi sự cai trị của Đế Quốc Mỹ và Ngụy quyền Sài Gòn”, nơi có một phần nửa đất nước đang đi theo chủ nghĩa Tư Bản thực dân đế quốc tệ hại…. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã biến nhân miền Bắc tự mình trở thành tay sai không điều kiện cho Cộng Sản Quốc Tế do Liên xô và Trung Quốc đứng đầu, bởi vì họ quá tin tưởng mù quáng vào nhân vật Hồ Chí Minh- người đã được đảng Cộng Sản VN bằng mọi cách biến từ một con người bình thường trở thành thần thánh cc kể cả đời tư lẫn chính trị. Trong khi trên thực tế, t Hồ Chí Minh chính là tay sai đắc lực của Quốc Tế Cộng Sản, người đã mang chủ nghĩa tàn ác và ngoại lai này về làm hại đất nước và dân tộc mà thôi.
Còn ở miền Nam trước ngày 30/4/1975 thì nhân dân đang được sống trong một chế độ tự do, dân chủ mà phần lớn họ bằng lòng với cuộc sống của họ ngày đó. Vì vậy họ cũng cương quyết đứng lên bảo vệ cuộc sống của mình cũng như là bảo vệ lãnh thổ quốc gia có chủ quyền. Người dân Việt Nam cả hai miền Bắc-Nam sẵn sàng chiến đấu hy sinh đến cùng, họ hiên ngang, bất khuất, vì cho rằng phần chính nghĩa thuộc về mình. Nhân dân miền Bắc sẵn sàng hy sinh để toàn thể dân tộc Việt Nam có “độc lập, tự do, hạnh phúc” được định hướng của chủ nghĩa Cộng Sản một chủ nghĩa hoang tưởng mà ngày nay thực tế nghị quyết 1481 của Châu Âu đã cho nó là chủ nghĩa tội ác chống lại nhân loại. Người lính, người dân cả hai miền, tất cả những người đã hy sinh, cũng như các thần dân đều tự hào hãnh diện vì đã hi sinh xương máu cho sự tồn vong của đất nước. Quan niệm, cách hiểu của người dân bị những nhà lãnh đạo cộng sản VN thực hiện chính sách ngu dân, ra sức bưng bít thông tin, ra sức nhồi sọ định hướng một cách mù lòa hết sức tai hại như vậy đấy.
Kết quả là hàng triệu người Việt Nam của cả hai miền phải chết oan uổng cho mục tiêu của Cộng Sản Quốc Tế trên thế giới còn đất nước thì hoang tàn, khánh kiệt vì bị đạn bom tàn phá. Một nước Việt Nam đã trở thành tan hoang, tiêu điều và xơ xác, nhà cửa nhân dân đổ vụn, người Việt Nam hai miền nhìn nhau với sự hận thù cao độ mà nguyên do tất cả từ bàn tay của Hồ Chí Minh cùng học thuyết CS Mác – Lê nin của bè đảng và những cuồng vọng điên rồ của ông ta mà ra.
Sự sợ hãi đó của những người dân quê Nghệ An chúng tôi ở miền Bắc dù chỉ là những người ngoài vĩ tuyến 17, không thuộc địa bàn chiến tranh ác liệt trong miền Nam hồi ấy. Lúc này những người dân miền Bắc được Cộng Sản tận dụng cơ hội kích động gia tăng “mối căm thù Mỹ – Ngụy” thật là ghê gớm. Vì lúc này tôi còn nhỏ nên không hiểu nhiều về sự thật cuộc chiến tranh, chỉ biết trên khắp quê hương đâu đâu cũng căng đầy những khẩu hiệu kêu gọi mọi người “hãy vì miền Nam ruột thịt thân yêu(lừa bịp)”…. Trong tầm nhận thức của tôi lúc đó thì “Đảng CSVN” là tuyệt vời, lãnh tụ (lừa bịp) Hồ Chí Minh là vị cứu tinh của dân tộc, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là chân lý mà đất nước Việt Nam này sẽ phải nỗ lực phấn đấu vươn tới….vv…và vv… Tôi chỉ mong mình thật sự đã lớn nhanh chóng như có phép lạ để được góp sức mình tham gia vào cuộc chiến đấu “giải phóng đồng bào miền Nam” cùng người lớn được đánh ỹ – ụy !!!
Tôi không thể quên ngày 30-4-1975, khi đất nước được gọi là “giải phóng (lừa bịp) hoàn toàn”. Tất cả mọi người, mọi nơi trên miền Bắc đều háo hức ăn mừng chiến công trong những hy sinh mất mát, nước mắt và niềm vui. Tôi, một đứa trẻ ngây thơ, khờ dại đã từng thắc mắc với mẹ và cô giáo: “Chừ đánh hết giặc rồi lớn lên con không được đi bộ đội để được trở thành anh hùng, được hy sinh cho nước Việt thân yêu nữa, thật đáng tiếc vô cùng… ngu”. Bởi tất cả các trường học ở miền Bắc thời bấy giờ đều rao giảng giảng đến những tấm gương anh dũng dám xả thân vì đất nước, mỗi người dân Việt Nam phải biết hy sinh cho công cuộc giải phóng Miền Nam ống ất đất nước …vv…vv ngu.
Trước những thắc mắc của tôi ấu trĩ, ngây thơ và đơn giản lúc ấy như vậy, Mẹ tôi đã ôm hôn tôi trong nước mắt mà giải thích rằng: “Chiến tranh chấm dứt rồi không ai còn phải chết vì chiến tranh, giờ hy sinh cho đất nước là học giỏi làm việc giỏi. Sau này con cũng sẽ trở thành anh hùng nhưng mà là anh hùng trong lao động để đem đất nước tiến lên giàu đẹp làm mọi người được vui vẻ sum vầy hạnh phúc vì có cơm no áo đẹp, chứ không phải là anh hùng để giết hại nhau giữa người với người nữa con ạ…”.
Tôi đâu biết được ngày mà tôi và nhiều người dân khác tại miền Bắc đang vui mừng chiến thắng, thì tại miền Nam thân yêu của tôi có bao nhiêu người phải chết oan uổng, có bao nhiêu gia đình phải chia ly, tan nát… Và còn nữa; có không biết bao nhiêu người phải làm mồi cho cá cá mập trên đường vượt biển đi tìm tự do sau khi ĐCS ở miền Bắc đã xâm chiếm hoàn toàn Nam VN để thiết lập ách cai trị độc ác lên nốt nửa đất nước mà họ đã tốn bao máu xương của dân chúng cả nước xây dựng nên. Không biết bao nhiêu người vợ, người mẹ, người con ở miền Bắc trông ngóng chẳng thấy người thân trở về trong nỗi đau thương, uất hận vô bờ bến…
Cho đến bây giờ đất nước Việt Nam đã thống nhất được 35 năm, đảng Cộng Sản VN đã đoạt được mọi quyền lực tuyệt đối theo ý muốn của bè đảng riêng của mình thì nhân dân Việt Nam đã đạt được những gì nào ??? Đảng Cộng Sản đã độc tôn thống lĩnh cả đất nước. Nhân dân Việt Nam đã đón nhận được những gì khi đất nước thống nhất ??? Độc lập thống nhất có thật sự chưa, còn tự do, ấm no, hạnh phúc của cả xã hội có ở đâu ??? Những điều này nó chỉ thể hiện trên lời nói, sách vở và báo chí cộng sản mà thôi.
Có phải chăng chủ nghĩa Cộng Sản ở đất nước này vẫn còn lừa dối người dân Việt Nam hôm nay rằng sẽ có một Thiên Đàng trên mặt đất thông qua chủ nghĩa Cộng Sản chăng ? Đảng Cộng Sản VN trả lời thế nào khi mức độ chênh lệch giàu nghèo giữa nhà cầm quyền với nhân dân, giữa nông thôn thành thị càng ngày càng lớn ra ??? Những khoản tài sản khổng lồ nằm trong tay những lãnh đạo Cộng Sản VN ở trong nước và nằm trong các tài khoản ở ngoại quốc là thế nào đây ??? Đảng Cộng Sản VN này sẽ trả lời thế nào trước nhân dân Việt Nam và toàn thế giới về 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông đã mất về tay Trung Cộng vĩnh viễn, vụ cho Trung Cộng khai thác Bô xít ở Tây Nguyên và các phần lãnh thổ ở biên giới phía Bắc đã mất như thác Bản Giốc, ải Nam Quan, cao điểm Lão Sơn cũng vậy ? Đảng Cộng sản trả lời thế nào về những tổ chức tôn giáo, giáo hội bị cấm đoán, những người giáo dân thuộc Công giáo, Tin Lành, Hòa Hỏa…hiền lành bị bức hại dã man, bị đánh đập đổ máu thê thảm và cả bị bắt giam hết sức tùy tiện nữa ??? Có phải chăng đảng cộng sản vì muốn xây dựng một Thiên đàng trên mặt đất nên bắt buộc phải tìm mọi cách để triệt tiêu tất cả các tôn giáo đang có mặt tại Việt Nam mà chưa bị quốc doanh hóa để bá chủ độc quyền làm những chuyện xấu xa chăng ??? Biết bao nhiêu người dân bị cướp mất nhà mất đất, ruộng vườn, bị mất người thân, mất quyền căn bản vốn có của con người phải vác đơn tố cáo khiếu kiện khắp nơi kêu cứu hàng chục năm ròng rã ? Vậy tóm lại là đảng Cộng Sản đã làm được những gì trên xương máu, mồ hôi nước mắt của hàng chục triệu nhân dân Việt Nam mấy chục năm qua ??? Các vị hãy trả lời nhân dân Việt Nam mà trong đó có cá nhân tôi nữa xem nào !
Cho đến bây giờ tôi hiểu tại sao cứ mỗi lần các chị tôi được giới thiệu vào Đảng CSVN đều bị mẹ tôi cản trở kiên quyết nhất định không cho vào. Phải chăng làm vợ của một cựu cán bộ Đảng Viên Cộng Sản lâu năm, nên mẹ tôi đã chứng kiến nỗi đau bị dày xéo trong lòng chồng mình, một người sinh ra trong một gia đình trí thức, giàu có bị nhà cầm quyền CS triệt hạ theo chủ trương mà kẻ đứng đầu đảng CS đầu tiên là tổng bí thư Trần Phú đã nêu lên làm khẩu hiệu, và tiêu chí để hành động tiêu diệt đến cùng: “ Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ ”. Mà trong những năm 1930 gia đình họ tộc chúng tôi phải miễn cưỡng cho thân nhân của mình tham gia vào hoạt động trong hàng ngũ đảng Cộng Sản để thoát chết nhằm duy trì nòi giống…. Thời ấy cả bố và anh trai của bố chồng bà đều là cán bộ của đảng Cộng Sản, đã hoạt động từ năm 1930-1931, ngay từ ngày đảng CS mới khai sinh ngày 3/2/1930. Nhưng chính anh của bố chồng bà là ông Hồ Duy Vinh đã bị những người bị cộng sản giết hại vào năm 1954. Bố của chồng bà là Hồ Duy Định cùng người cháu trai con ông Vinh là Hồ Duy Hợi phải bỏ trốn vì chế độ Cộng Sản tàn ác. Khi có chủ trương gọi là ” sửa sai minh oan” thì Ông Định đã mới dám trở về làng. Cho đến nay thì ông Hồ Duy Hợi – con ông Vinh, người bị cộng sản giết hại vẫn bị mất tích sống chết thế nào đến nay không ai hay, cả họ tộc tôi gắng công tìm kiếm vẫn không tìm ra. Trong thời gian làm việc cho Cộng Sản tại Hà Nội chồng bà (tức bố tôi) nhìn thấy anh trai nhưng chỉ kịp gọi được mấy tiếng : “ Anh Hợi ơi !.. ” nhưng hình như bác tôi sợ liên lụy nên không trả lời mà lẩn trốn cả em mình để bỏ đi biệt tích, cũng từ đó tới nay bác tôi bặt vô âm tín. Có lẽ bác tôi lúc đó chắc sợ bố tôi là một “Cộng sản” sẽ bắt nộp ông cho bè lũ cộng sản cấp trên để chúng giết hại nên không dám trả lời mà lẩn trốn đi chăng ???
Tôi còn nhớ khi giảng bài tại một lớp học Kinh thánh, mục sư Tin lành Nguyễn Trung Tôn ở xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa có trích một câu kinh thánh để mọi người suy ngẫm và lúc này tôi muốn trích câu trong Thánh Kinh này làm lời nhắn nhủ người dân Việt Nam, đặc biệt là những người cộng sản VN là :
(“Có một con đường mới trông tưởng chính đạo, nhưng cuối nẻo của nó là sự chết” Kinh thánh Châm ngôn 14:12).
Có phải chăng tôi cũng như nhiều người dân khác đã lầm tưởng Chủ nghĩa Cộng Sản là chính đạo ? Có chắc chắn rằng kết cục của chủ nghĩa Cộng Sản chỉ là sự diệt vong ??? Không cần giải thích nhiều, chúng ta cứ nhìn vào sự phát triển tưởng là mạnh mẽ của chủ nghĩa này vào đầu thế kỷ 20 và sự tan vỡ của nó tại Đông Âu cũng như trên toàn địa cầu vào cuối thế kỷ đó thì chúng ta có ngay câu trả lời rồi !!!
Đảng Cộng Sản Việt Nam giờ này phải trả lời dân tộc Việt Nam ngay lập tức mà hành động nên làm nhất để chuộc những tội lỗi, sai lầm hiện nay và trong quá khứ là ngay lúc này, hãy trả lại quyền lãnh đạo đất nước Việt Nam cho người dân Việt Nam để mọi người cùng nhau đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa của Trung Cộng- một lũ “Sa Tan trá hình Cộng sản”. Hãy trả lại ngay lập tức cho người dân Việt Nam những quyền vốn có của họ ! Hãy thả ngay những người yêu nước đang bị tù đầy để họ góp sức vào công cuộc cứu nguy dân tộc !!!
Đức Chúa Trời sẽ cho quý vị có cơ hội ăn năn nên hãy ăn năn khi còn cơ hội !!!
.
Cuối cùng tôi xin mượn lời bài “Hát hãy trả lời tôi” của tác giả Trường Hải hiện sống lưu vong nơi hải ngoại mà ông vốn là đồng bào tỵ nạn CSVN đã sáng tác ra để làm lời kết cho bài viết này :
Này kẻ cướp nước ngươi giải phóng cho ai ???
Người nói tự do sao ta bị tù đầy ???
Người nói ấm no sao ta bị đói rét ???
Người nói hạnh phúc sao ta bị khổ đau ???
Là kẻ nói láo sao lại bắt ta tin ???
Đoàn kết toàn dân sao ngươi gây hận thù ???
Độc đảng độc tôn sao ngươi gọi dân chủ ???
Người nói công lý nhưng lại chơi luật rừng ???
Một lần không tin, trăm lần không tin !!!
Vạn lần không tin, người ơi !!!
Một lần nói dối, trăm lần nói dối !!!
Vạn lần cũng thế mà thôi !!!
Làm sao ta tin được, làm sao ta tin được, làm sao ta tin được !!!
Những lời xáo trá trơn tru, những lời chót lưỡi đầu môi !!!
Đỉnh cao trí tuệ sản sinh ra người !!!
Là kẻ lắt léo, ngươi đổi trắng thay đen !!!
Ngươi muốn loài giun rế lên thay làm người !!!
Và bắt toàn dân trở thành người câm điếc !!!
Vì mất tự do nên liều chết ra đi !!!
Vì mất tự do nên liều chết ra đi !!!

Thứ Năm, 15 tháng 4, 2010

AC THU HO CHI MINH SU DUNG CHE DO NHA TU TAI VIET NAM

Các tội ác chống nhân loại của Hồ Chí Minh và Cộng sản VN
5 Tội Ác chống Loài Người (Crimes against Humanity)
Đỗ Ngọc Uyển

Sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê nguyên cái mô hình "hoc tập cải tạo" của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là "cải tạo" những người chống đối chủ nghĩa xã hội để trở thành công dân của nước xã hội chủ nghĩa. Với kế hoạch "cải tạo giết người" này, Hồ Chí Minh đã giết và thủ tiêu 850,000 người dân Miền Bắc trong những cái gọi là "trại học tập cải tạo."

Sau ngày 30-4-1975, lũ Việt gian cộng sản cũng tiếp tục kế hoạch giết người này, và chúng đã giết và thủ tiêu 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia trong 150 "trại cải tạo" của chúng trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

"Học Tập Cải Tạo" Bắt Đầu tại Miền Bắc Việt Nam

Để xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiêu diệt tất cả những thành phần chống đối bằng những kế hoạch khủng bố sắt máu như: Rèn Cán Chỉnh Quân, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Cách Ruộng Đất, và đàn áp những phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Trăm Hoa Đua Nở… Số nạn nhân của những vụ khủng bố này không ai biết là bao nhiêu, nhưng có thể ước tính là trên một triệu người, bởi vì chỉ riêng vụ gọi là Cải Cách Ruộng Đất đã có 700,000 nạn nhân. Nói chung, cho tới đầu năm 1960 toàn thể xã hội Miền Bắc đã bị "cào bằng," không còn giai cấp (social class). Các giai cấp trí, phú, địa, hào đã bị đào tận gốc, trốc tận rễ. Không ai có quyền tư hữu và mọi người đều nghèo khổ, đói rách như nhau. Mỗi năm, mỗi người được phát 2 thước vải thô Nam Định chỉ có thể may được một cái quần hay một cái áo, và hàng tháng được phát 15kg gạo, 200gr đường… Chưa hết, với chủ trương tuyệt diệt những thành phần chống đối, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho cái quốc hội bù nhìn "ban hành" một nghị quyết về "học tập cải tạo." Đây là một mẻ lưới "vĩ đại" cuối cùng nhằm vét hết những thành phần có thể gây cản trở cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của y. Các trại "cải tạo" của Hồ Chí Minh được rập theo đúng khuôn mẫu các trại "lao cải" (laogai hay laojiao) của Mao Trạch Đông. . . Theo lệnh của Hồ, quốc hội cộng sản đã "ban hành" một Nghị Quyết (Resolution) về "học tập cải tạo" mang số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961. Căn cứ vào nghị quyết này, hội đồng chính phủ đã "đẻ" ra cái Thông Tư (General Circular) số 121-CP ngày 8-9-1961 để áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Những nạn nhân bị chi phối bởi cái nghị quyết trên gồm những thành phần sau đây:

1. Tất cả những gián điệp nguy hiểm, những biệt động; tất cả những quân nhân và viên chức hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây.
2. Tất cả những nhân vật nòng cốt của các tổ chức và đảng phái đối lập.
3. Tất cả những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và những kẻ chống phá cách mạng.
4. Tất cả những kẻ chống phá cách mạng đã bị tù và hết hạn tù nhưng không chịu cải tạo.

Bốn thành phần trên đây đều có một đặc điểm chung mà cộng sản gọi là "những thành phần ngoan cố, chống phá cách mạng." (obstinate counter-revolutionary elements). Thời gian "cải tạo" được ấn định là 3 năm, nhưng sau 3 năm mà chưa "tiến bộ" thì "cải tạo" thêm 3 năm nữa và cứ như thế tiếp tục tăng thêm 3 năm nữa… cho đến khi nào "học tập tốt, cải tạo tốt" thì về, thực tế là vô thời hạn. Ngoài Hồ Chí Minh và những tên đồng đảng ra, không ai biết được số nạn nhân bị đưa đi "cải tạo" là bao nhiêu; nhưng có thể ước tính là nhiều triệu người, căn cứ vào con số nạn nhân chết trong các "trại cải tạo" là 850,000 người do Tổ Chức Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (The Victims of Communism Memorial Foundation) đưa ra: (…When Ho Chi Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves in reeducation camps ...)


"Học Tập Cải Tạo" tại Miền Nam Việt Nam
Cộng sản ước tính rằng tại Miền Nam có 1,300,000 người đã tham gia vào chính quyền Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và mỗi gia đình có 5 người; như vậy là có 6,500,000 người có nợ máu với chúng. Những người nào phục vụ trong quân đội hay trong chính quyền thì phải đi "cải tạo" và những thành phần còn lại trong gia đình thì phải đi những "khu kinh tế mới;" cũng là một cách đưa đi đầy ải tại những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Đây là một kế hoạch "tắm máu trắng" đã được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của của tập đoàn Việt gian cộng sản.

Một tháng sau khi xâm chiếm được Miền Nam, lũ bán nước cộng sản áp dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông Tư số 121-CP ngày 8-9-1961 của chúng để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia chống cộng đi "học tập cải tạo," thưc chất là đưa đi tù để trả thù (revenge). Đây là cung cách hành xử man rợ của thời trung cổ. Và bằng lối hành xử dã man, rừng rú này, cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân Loại [1] (Crimes against Humanity) theo luật pháp quốc tế được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) như sau:

Tội ác thứ 1 - Tội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng, vi phạm những điều luật căn bản của luật pháp quốc tế (Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law)

Những người bị cộng sản cầm tù (imprisonment) sau ngày 30-4-1975 là những người bị cộng sản trả thù vì lý do chống cộng tức lý do chính trị. Cộng sản không thể mang những người này - công dân của một một quốc gia độc lập đã bị Việt gian cộng sản, tay sai của Quốc Tế 3, xâm chiếm bằng vũ lực (aggression) một cách phi pháp - ra toà án để kết tội. Cộng sản nguỵ biện một cách láo xược rằng những người này là những tội phạm chiến tranh (war criminals) theo điều 3 của đạo luật về tội chống phá cách mạng ban hành ngày 30-9-1967 của chúng (article 3 of the 30 October 1967 law on counter-revolutionary crimes) và rằng nếu mang ra tòa án xét xử thì những người này có thể bị kết án từ 20 năm tù đến chung thân hay tử hình; nhưng vì chính sách "khoan hồng" và sự "chiếu cố" của đảng nên những người này được đưa đi "học tập cải tạo" thay vì đưa ra toà án xét xử. Đây là một sự nguỵ biện trơ trẽn và lếu láo. Luật rừng rú của đảng cộng sản không có một chút gì gọi là công lý của thời đại văn minh mà chỉ là một công cụ man rợ của thời trung cổ để khủng bố người dân Miền Bắc dưới sự thống trị của chúng, và không thể mang ra áp dụng cho công dân của một quốc gia văn minh như VNCH được.

Tóm lại, giam cầm người không chính thức kết án, không xét xử (imprisonment without formal charge or trial) là vi phạm nhân quyền và là Tội Ác chống Loài Người.

Tội ác thứ 2 - Tội tra tấn, hành hạ (Torture)

Đối với cộng sản, các quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà và những người quốc gia chống cộng là kẻ thù không đội trời chung của chúng. Do đó, một khi đã sa cơ rơi vào tay chúng là dịp để chúng trả thù bằng tra tấn và hành hạ. Mục đích trả thù của chúng là nhằm tiêu diệt hết khả năng chống cự của cả thể chất lẫn tinh thần của người tù. Sau đây là vài đòn thù tiêu biểu:

a. Hành hạ bằng cách bỏ đói - Đây là một đòn thù thâm độc nhằm tiêu diệt ý chí của người tù về lâu về dài. Người tù bị đói triền miên, không còn nghĩ đến chuyện gì khác ngoài miếng ăn. Quanh năm suốt tháng không một bữa được ăn no; càng ăn càng đói và đói cho tới khi chết. Ngay cả trong giấc ngủ cũng chỉ mơ đến miếng ăn. Bát cơm và miếng thịt là một ước mơ xa vời. Trên nguyên tắc, mỗi người tù được cấp mỗi tháng 12kg gạo. Nhưng thực tế, người tù chỉ được cấp ngô, khoai, sắn, bo bo… tương đương với 12kg gạo mà chúng gọi là "quy ra gạo." Ngô, khoai, sắn và bo bo mà chúng cho tù ăn là những thứ được cất giữ lâu ngày trong những kho ẩm thấp, bị mục nát, hư hỏng và đầy sâu bọ. Với số lượng và phẩm chất lương thực như thế, tính ra chỉ cung cấp đươc khoảng từ 600 đến 800 calories một ngày, không đủ để sống cầm hơi, lại phải làm công việc khổ sai nặng nhọc cho nên đã có rất nhiều tù nhân chết vì đói, vì suy dinh dưỡng. Sau đây là một ví dụ: vào cuối năm 1978, tại trại 2 thuộc liên trại 1 Hoàng Liên Sơn có một anh bạn tù vì "lao động" nặng nhọc và suy dinh dưỡng đang nằm chờ chết. Anh em bạn tù thấy vậy bèn hỏi xem anh ta có muốn nhắn gì về cho vợ con hay người thân không? Anh bạn tù sắp chết nói rằng anh ta chỉ muốn được ăn no một bữa khoai mì luộc! Nghe vậy, có một anh tù, vì thương bạn, đã mạo hiểm chui qua hàng rào, đào trộm vài củ khoai mì do chính tù trồng, mang về luộc, rồi mang lên cho bạn thì anh bạn đã chết. Thỉnh thoảng tù cũng được cho ăn cơm nhưng lại độn hai phần sắn hay khoai với một phần gạo, và mỗi bữa ăn, mỗi người được phân phát một chén nhỏ với nước muối. Đến mùa "thu hoạch" ngô và khoai mì do tù trồng, anh em tù cũng được cấp phát ngô và khoai mì luộc. Mỗi bữa ăn được phân phát hai cái bắp ngô, chỉ đếm được chừng 1000 hạt, và khoai mì thì được cấp phát hai khúc, mỗi khúc ngắn độ một gang tay. Còn thịt thì chỉ được cấp phát vào những dịp đặc biệt như ngày tết Nguyên Đán, ngày lễ độc lập của chúng, ngày sinh nhật "Bác"của chúng; mỗi phần ăn được khoảng 100gr thịt heo hay thịt trâu.

Bỏ đói tù là một thủ đoạn tra tấn/hành hạ (torture) đê tiện, có tính toán của cộng sản. Ngoài việc huỷ diệt ý chí của người tù, sự bỏ đói còn nhằm huỷ hoại thể chất của người tù để không còn sức đề kháng chống lại bệnh tật. Do đó, đã có rất nhiều anh em mắc những chứng bệnh do suy dinh dưỡng như lao phổi, kiệt sức, phù thũng, kiết lỵ, ghẻ lở…, và có rất nhiều cái chết rất đau lòng chỉ vì đói, vì suy dinh dưỡng, vì thiếu thuốc men và không được chữa trị…

b. Hành hạ thể xác - Cộng sản vẽ ra khẩu hiệu "lao động là vinh quang." Chúng bắt người tù phải làm công việc khổ sai nặng nhọc như cuồc đất, đào đất, làm đường, đào ao, chặt cây, đốn gỗ, cưa xẻ, làm gạch…Người tù đã thiếu ăn, kiệt sức; chúng lại đặt ra những chỉ tiêu cao để người tù không thể đạt được, và chúng kiếm cớ để hành hạ thể xác:

* Cắt tiêu chuẩn lương thực từ 12kg xuống còn 9kg và nhốt vào conex, khoá chặt. Người tù bị nhốt như vậy có khi hàng tháng. Với sức nóng mùa Hè và khí lạnh mùa Đông không thể chịu đựng nổi, người tù bị chết vì sức nóng và chết vì rét.

* Cắt tiêu chuẩn lương thực xuống còn 9kg; nhốt trong sà lim; hai chân bị cùm siết chặt đến chảy máu; da thịt bị nhiễm trùng, lở loét; người tù bị nhốt như vậy trong nhiều tháng trời và khi được thả ra chỉ còn da bọc xương, đi không nổi phải bò.

* Chúng cột người tù vào một cây cột và bắt người tù phải đứng thẳng hoặc nằm hay ngồi cả tuần lễ có khi lâu hơn.

* Chúng trói người tù theo kiểu cánh bướm "butterfly style or contorted position" bằng cách bắt một cánh tay bắt chéo qua vai và cánh tay kia bắt qua sau lưng và cột chặt hai ngón tay cái với nhau.

Chúng cột người tù trong tư thế bị trói như vậy vào một cái cột và bắt đứng trong nhiều tiếng đồng hồ. Người tù chịu không nổi, bị ngất xỉu.

Trên đây chỉ là vài cách hành hạ (torture) thể xác tiêu biểu. Cộng sản còn nhiêu kiểu hành hạ độc ác khác như nhốt người tù vào chuồng cọp hay bỏ xuống những giếng nước khô cạn, bỏ hoang lâu ngày, đầy những ổ rắn rết…

c. Tra tấn tinh thần - Mục đích của cộng sản là làm cho tinh thần người tù luôn luôn bị căng thẳng để gây tổn thương trầm trọng cho sức khoẻ thể chất và tinh thần (causing serious injury to physical and mental health) bằng hai phương pháp sau đây:

* Nhồi sọ chính trị (Political indoctrination) - Để mở đầu kế hoạch "cải tạo," cộng sản bắt người tù phải học 9 bài chính trị. Mỗi bài phải học từ một tuần lễ đến 10 ngày gồm: lên lớp, thảo luận trong tổ, trong đội… Cuối mỗi bài học, người tù phải viết một bản gọi là "thâu hoạch" để nộp cho chúng. Nội dung những bài học gọi là chính trị này chỉ là những bài tuyên truyền rẻ tiền như: Mỹ là tên đầu sỏ đế quốc, là con bạch tuộc có hai vòi: một vòi hút máu nhân dân Mỹ và một vòi hút máu nhân dân nước ngoài. Ta đánh Mỹ cũng là giải phóng cho nhân dân Mỹ thoát khỏi sự bóc lột của đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ là con hổ giấy. Mỹ giầu nhưng không mạnh. Ta nghèo nhưng ta mạnh. Dưới sự lãnh đạo của đảng quang vinh, ta đã đánh thắng tên đế quốc sừng sỏ nhất thời đại. Nguỵ quân, nguỵ quyền là tay sai của đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân và là tội phạm chiến tranh…Bài học cuối cùng là bài "lao động là vinh quang" để chuẩn bị bắt người tù làm những việc khổ sai nặng nhọc.

Những bài tuyên truyền rẻ tiền và ấu trĩ trên đây chỉ có thể áp dụng cho người dân bị bưng bít và thiếu học ở Miền Bắc đã bị cộng sản u mê hoá chứ không có tác dụng gì đối với những người đã sống dưới chính thể tự do tại Miền Nam. Tuy nhiên, cái không khí khủng bố của trại tù đã làm cho một số anh em hoang mang và căng thẳng tinh thần. Do đó, đã có một số người tự sát và trốn trại. Những người trốn trại chẳng may bị bắt lại đã bị chúng mang ra toà án nhân dân của chúng kết tội và bắn chết ngay tại chỗ. Đây là đòn khủng bố tinh thần phủ đầu của cộng sản theo kiểu "sát nhất nhân, vạn nhân cụ."

* Tự phê (Confession) - Tiếp theo phần "học tập chính trị" là phần "tự phê." Người tù phải viết một bản tiểu sử kể từ khi còn nhỏ cho tới khi vào tù; phải kê khai thành phần giai cấp của dòng họ từ ba đời trước cho đến con cháu sau này; phải kê khai những việc làm trong quá khứ và phải kết tội những việc làm đó là gian ác cũng như phải tự kết tội mình có nợ máu với nhân dân. Người phát thư cũng bị kết tội là đã chuyển thư tín giúp cho bộ máy kìm kẹp của nguỵ quân, nguỵ quyền. Các vị tuyên uý trong quân đội bị kết tội là đã nâng cao tinh thần chiến đấu của nguỵ quân. Các bác sĩ quân y thì bị kết tội là đã chữa trị cho các thương, bệnh binh để mau chóng phục hồi sức chiến đấu của nguỵ quân…Tóm lại, tất cả nguỵ quân, nguỵ quyền đều là những thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân và phải thành khẩn khai báo những tội ác cũng như phải thành khẩn lao động sản xuất để sớm được đảng cứu xét cho về đứng "trong lòng dân tộc." Trong suốt thòi gian bị tù, người tù phải liên tiếp viết những bản tự phê; phải moi óc tìm và "phịa" ra những "tội ác" để tự gán và kết tội mình, và nếu bản viết lần sau thiếu vài "tội ác" so với bản viết lần trước, anh sẽ bị kết tội là vẫn còn ngoan cố và thời gian học tập sẽ còn lâu dài.

"Tự phê" một đòn tra tấn tinh thần rất ác ôn. Nó làm cho người tù bị căng thẳng tinh thần triền miên kể cả trong giấc ngủ và đã có một số anh em gần như phát điên, la hét, nói năng lảm nhảm và có người đã tự vẫn…



Tội ác thứ 3 - Tội giết người (Murder)

Những anh em trốn trại bị bắt lại đã bị cộng sản mang ra xử tại toà án nhân dân của chúng và bị bắn chết ngay tại chỗ. Đây là tội ác giết người (murder) bởi vì trên danh nghĩa cũng như theo pháp lý thì những người này chỉ là những người đi học tập. Và khi một người đi học tập mà trốn trại học tập là chuyện rất thường tình, không có tội lỗi gì đối với pháp luật. Nhưng đối với bọn vô nhân tính cộng sản thì không thể nói chuyện lý lẽ với chúng được. Vào một ngày cuối năm 1975, tại trại giam Suối Máu, Biên Hoà, chúng mang hai anh sĩ quan cấp uý trốn trại bị bắt lại ra xử tại toà án nhân dân rừng rú của chúng được thiết lập ngay trong trại giam. Trước khi mang ra xử, chúng đã tra tấn hai anh này đến mềm người, rũ rượi, xụi lơ, không còn biết gì nữa. Ngồi trên ghế xử, tên "chánh án" cùng ba tên đồng đảng giết người mặt sắt đen sì, răng đen mã tấu, dép râu, nón cối, ngập ngọng giọng Bắc Kỳ 75 đọc xong "bản án giết người" đã viết sẵn và ngay lập tức chúng mang hai anh ra bắn chết cạnh hai cái hố đã đào sẵn. Buổi trưa hôm đó bầu trời Biên Hoà có nắng đẹp, nhưng khi tiếng súng giết người nổ vang lên, mây đen bỗng kéo đến phủ tối cả bầu trời và đổ xuống những hạt mưa nặng hạt. Tất cả anh em trong trại giam lặng lẽ cúi đầu tiễn đưa hai đồng đội sa cơ, thất thế.

Ngoài cách giết người rừng rú trên đây, cộng sản còn chủ tâm giết người bằng nhiều cách khác như cho ăn đói và bắt làm khổ sai nặng nhọc để chết dần chết mòn; để cho chết bệnh, không cung cấp thuốc men, không chữa trị; bắt làm những việc nguy hiểm chết người như gỡ mìn bằng tay không…

Tôi ác thứ 4 - Tội bắt làm nô lệ (Enslavement)

Người tù phải sản xuất lương thực như trồng sắn, trồng ngô, trồng khoai, trồng rau…để tự nuôi mình; ngoài ra, còn phải sản xuất hàng hoá, sản phẩm để bán ra ngoài thị trường. Tại các trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, người tù phải đốn gỗ, cưa xẻ, chặt giang, chặt nứa, chặt vầu… để trại tù mang đi bán. Tai trại tù Hà Sơn Bình có những đội cưa xẻ, đội mộc, đội gạch để sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và gạch để bán. Tại trại tù Z30D, Hàm Tân, người tù phải trồng mía, sản xuất đường; mỗi tháng bán hàng tấn đường ra ngoài thị trường… Cộng sản bắt người tù phải làm công việc như người nô lệ thời trung cổ khi phe thắng trận bắt người bên phe thua trận phải làm nô lệ lao động (slave labour) thay vì mang đi giết. Đây là sự vi phạm nhân quyền một cách man rợ của thời trung cổ và là một Tội Ác chống Loài Người.

Tội ác thứ 5 - Tội thủ tiêu mất tích người (Enforced disappearance of persons)

Theo các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu thì số nạn nhân chết trong các "trại cải tạo" là 165,000 người. Hiện nay, ngoài cộng sản ra, không ai biết nơi chôn cất các nạn nhân này. Suốt 33 năm nay, chúng không cho thân nhân cải táng để mang hài cốt về quê quán. Đây là đòn thù vô nhân đạo đối với những nạn nhân đã nằm xuống, và là hành vi độc ác (inhumane act) gây đau khổ tinh thần triền miên, suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Chỉ có một số rất ít, không đáng kể, thân nhân các nạn nhân đã chạy chọt, tìm được cách cải táng người thân của họ; còn tuyệt đại đa số 165,000 người tù chính trị được coi như đã bị thủ tiêu mất tích. Đây là chủ tâm trả thù dã man của cộng sản và là một Tội Ác chống Nhân Loại.

Mới đây nhất, trong cuộc họp với tổng thống George W. Bush tai Bạch Cung ngày 24-6-2008, Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng hứa sẽ tiếp tục tìm kiếm và trao cho Hoa Kỳ hài cốt những quân nhân Mỹ mất tích (MIA) trong cuộc chiến VN. Trong khi đó quân cộng sản giết người đang chôn giấu để thủ tiêu mất tích hài cốt của 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia đã bị chúng sát hại, sau ngày 30-4-1975, trong 150 "trại tù cải tạo" của chúng trên toàn cõi VN. Điều này chứng tỏ rằng lũ Việt gian cộng sản tiếp tục nuôi dưỡng hận thù đối với người Việt quốc gia, ngay cả đối với những người đã nằm xuống, trong khi miệng chúng luôn luôn hô hào hoà hợp hoà giải. "Đừng nghe những gì cộng sản nói; hãy nhìn kỹ những gì chúng làm."

Ngoài 5 tội ác chống loài người kể trên, vào năm 1980, cộng sản đã có kế hoạch đưa gia đình những người tù từ Miền Nam để cùng với những thân nhân của họ đang bị tù tại Miền Bắc đi "định cư" tại những "khu kinh tế mới" ở Miền Bắc mà thí điểm đầu tiên là khu Thanh Phong/Thanh Cầm, một khu rừng thiêng nước độc tại Miền Bắc, nơi đang có những "trại cải tạo." Ý đồ của âm mưu thâm hiểm này là đưa đi đầy chung thân, khổ sai, biệt xứ để giết dần, giết mòn tất cả những người tù cùng với gia đình họ. Đây là một kế hoạch diệt chủng (genocide) được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhưng trời bất dung gian, chúng không thực hiện được âm mưu diệt chủng này vì cục diện thế giới thay đổi dẫn đến sự phá sản của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, và chúng đã phải thả những nạn nhân của chúng ra để họ đi định cư tại Hoa Kỳ với tư cách là những người tỵ nạn chính trị (political refugees).

Cái nghị quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 của tên đại Việt gian bán nước Hồ Chí Minh - cho tới ngày hôm nay vẫn còn hiệu lực - là một dụng cụ đàn áp thâm hiểm nhất để chống lại nhân quyền (the most repressive tool against human rights). Suốt nửa thế kỷ vừa qua, bằng cái nghị quyết phản động này, lũ bán nước cộng sản đã và đang tiếp tục đưa hàng triệu, triệu người Việt Nam đi "học tập cải tạo" mà không qua một thủ tục pháp lý nào cả. Với 5 Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity) như đã trình bày trên đây, bọn Việt gian cộng sản phải bị mang ra xét xử tại Toà Án Hình Sự Quốc Tế [2] (International Criminal Court).

Số Nạn Nhân Bị Giam Cầm, Số Nạn Nhân Chết và Số "Trại Tù Cải Tạo"

Theo sự ước tính của các tài liệu nghiên cứu có tính hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu đã được phổ biến "…According to the published academic studies in the United States and Europe…" thì số nạn nhân và số các "trại tù cải tạo" được ước tính như sau:

* 1 triệu nạn nhân đã bị giam giữ không bị chính thức kết tội hay xét xử (without formal charge or trial).
* 165,000 nạn nhân chết tại các "trại tù cải tạo."
* Có ít nhất 150 "trại tù cải tạo" sau khi Sàigòn sụp đổ.

Thời Gian "Cải tao"

Có những nạn nhân đã bị giam giữ tới 17 năm, và theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì đại đa số nạn nhân bị giam giữ từ 3 tới 10 năm, và tính trung bình mỗi người phải trải qua 5 trại giam. "…according to the U.S. Department of State, most term ranging from three to 10 years…"Nếu lấy con số trung bình là 7 năm tù cho mỗi người thì số năm tù của một triệu nạn nhân là 7 triệu năm. Đây là một tội ác lịch sử không tiền khoáng hậu của bọn Việt gian cộng sản; vượt xa cả tội ác một ngàn năm của bọn giặc Tầu và một trăm năm bon giặc Tây cộng lại.

Món Nợ của Hoa Kỳ Đối Với Đồng Minh

Chính phủ Hoa Kỳ công nhận những người bị giam cầm (imprisonment) này là những ngưòi tù chính trị, và đã điều đình với phỉ quyền cộng sản để cho những người này được thả ra để cùng với gia đình đi đinh cư tỵ nạn tại Mỹ ưu tiên theo Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) đối với những người bị giam cầm từ 3 năm trở lên. "…The U.S. government considers reeducation detainees to be political prisoners. In 1989 the Reagan administration entered into an agreement with the Vietnamese government, pursuant to which Vietnam would free all former AVN soldiers and officials held in reeducation camps and allow them to immigrate to the United States… that gives priority to those who spent at least three years in reeducation…"Hoa Kỳ coi việc đưa những người tù chính trị này sang định cư tỵ nạn tại Mỹ là để trả một món nợ quốc gia đối với đồng minh trong thời chiến. Những người này đã bị giam cầm vì đã cộng tác mật thiết với Hoa Kỳ trong cuộc chiến. "… Resettling this group will be a step toward closing out this nation's debt to its Indochina wartime allies. "These people have been detained because of their closed association with us during the war," said Robert Funseth, the senior deputy assistance secretary of state for refugee affairs who spent most of this decade negotiating their resettlement…"

Phải nói môt cách chính sác rằng những người tù chính trị Việt Nam đi định cư tỵ nạn tại Mỹ theo một chương trình ra đi đặc biệt (a special program) nằm trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) chứ không phải theo chương trình HO (Humanitarian Operation) tưởng tượng nào cả. Cái gọi là chương trình HO chỉ là sự suy diễn từ các con số thứ tự của các danh sách những người tù chính trị đã được cộng sản trao cho Hoa Kỳ để phỏng vấn đi tỵ nạn tại Mỹ theo thứ tự: H.01, H.02…. H.10, H.11, H.12…

Cộng sản và tay sai có thể lợi dụng cái danh xưng "HO" không Chính không Thực và Lập Lờ này cho những âm mưu đen tối của chúng. Chúng có thể tuyên truyền lếu láo rằng: "Không những đảng đã tha chết cho bọn tội phạm chiến tranh này, mà còn tổ chức cả một "Chiến Dịch Nhân Đạo/HO" để cho đi định cư tại ngoại quốc. Ra đến ngoại quốc đã không biết ơn lại còn đi đấu tranh, biểu tình chống lại đảng…" Sự kiện tù chính trị là một sự kiện có tính chính trị và lịch sử; phải xử dụng Danh cho Chính. Không thể Lộng Giả Thành Chân cái nguỵ danh "HO" để xuyên tạc sự thật lịch.

Học tập cải tạo" là một nguỵ danh để che đậy 5 Tội Ác chống Loài Người (Crimes against Humanity) được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) của bè lũ Việt gian cộng sản đối với quân, dân, cán, chính VNCH đã bị chúng giam cầm (imprisonment) một cách phi pháp sau ngày 30-4-1975. Đây cũng là một tội ác có tính lịch sử của lũ Việt gian cộng sản. Cái nguỵ danh "tù cải tạo/HO" phải được Chính Danh là: Tù Nhân Chính Trị và Nạn Nhân của Tội Ác chống Loài Người của Hồ Chí Minh và bè lũ cộng sản. Cũng cần phải nói thêm rằng khi dùng cái danh từ "cải tạo" của cộng sản là mắc mưu chúng bởi vì chúng tuyên bố lếu láo rằng vì các anh có "nợ máu" với nhân dân nên các anh phải đi "cải tạo," và khi tự gọi mình là "tù cải tạo" tức là tự nhận mình có tội. Cũng như khi tự gọi mình là một "HO"- một cái nguỵ danh đã bị lộng giả thành chân để chỉ một người "tù cải tạo" - là tự từ bỏ cái căn cước người tù chính trị của mình. Cho nên, Chính Danh là vấn đề rất quan trọng cả về chính trị và lịch sử. Dùng Nguỵ Danh để che đậy và bóp méo một sự kiện lịch sử là tội đại gian và có tội đối với lịch sử.

Đỗ Ngọc Uyển
Tháng 10 năm 2008
Sanjose, California

Tài liệu tham khảo:

-http://en.wikipedia.org/wiki/Reeducation_camp
-http://www.ofc.berkeley.edu/~sdenney/Vietnam-Reeducation-Camps-1982
-http://www.victimsofcommunism.org/history_communism.php
-http://untreaty.un.org/cod/icc/STATUTE/99_corr/cstatute.htm (Rome Statute of International Criminal Court)
-http://www.optionaljournal.com/best/?id=110010372" (The Wall Street Journal, Monday, July 23, 2007 – Best of The Web Today by James Tananto)
http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=953D7103DF936A25753C1A96F948260&sec= &spon=…(The New York Times, October 15, 1989
- THE NATION; The Next Wave From Vietnam: A new Disability by Seth Mydans)
- U.S Department of State – Fact sheet - Bureau of Population, Refugee and Migration – Washington DC – January 16, 2004

Chú thích

[1] 11 tội ác chống nhân loại được dự liệu trong Điều 7 của Đạo Luật Rome gồm có: 1- Murder; 2- Extermination ; 3- Enslavement; 4- Deportation or forcible transfer of population; 5- Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law; 6- Torture; 7- Rape, sexual slavery, enforced prostitution, forced pregnancy, enforced sterilization or other form of sexual violence of comparable gravity; 8- Persecution against any identifiable group or collectivity on political, racial, national, ethnic, cultural, religious, gender as defined in paragraph 3, or other grounds that are universally recognized as impermissible under international law in connection with any crime within the jurisdiction of the court; 9- Enforced disappearance of persons; 10- The crime of apartheid; 11- Other inhumane acts of a similar character causing great suffering, or serious injury to body or to mental or physical health;

[2] Toà Án Hình Sự Quốc Tế (International Criminal Court) là toà án độc lập và thường trực được thành lập theo Đạo Luật Rome (The Rome Statute) để

điều tra và xét xử 4 loại tội ác sau đây: 1- Crimes against humanity (Tội ác chống nhân loại); 2- The crime of genocide (Tội ác diệt chủng); 3- Crimes of war

(Tội ác chiến tranh); 4- Crimes of aggression (tội ác xâm lược).

Thứ Hai, 12 tháng 4, 2010

MOT DOI LAM TAY SAI VC CHI VI BI LUA GAT VA HAM DOA

NGÂY THƠ VỀ CHÍNH TRỊ
Trần Viết Đại Hưng


CONG SAN LUON LOI DUNG SU NGAY THO VA NGU XUAN CUA THANH NIEN:

Ngây thơ là một đặc tính của tuổi thơ. Ðầu óc tuổi thơ luôn bao gồm những gì hồn nhiên, trong sáng. Ðối với tuổi thơ, không ai đặt vấn đề bắt mấy em phải dùng lý trí để suy xét một vấn đề. Ðầu óc các em là một tờ giấy trắng, chỉ biết thu thập những dữ kiện mà không có sự phán đoán chính xác .

Rồi theo thời gian, tuổi thơ lớn lên thành người lớn từng trải. Sự phán đoán ngày càng được hình thành dựa trên kiến thức học hỏi và kinh nghiệm đời sống. Sự khôn ngoan không phải một sớm một chiều có được mà phải tích lũy và sàng lọc qua thời gian. Thông thường một người có học vấn thường có khả năng phán đoán và nhận định tình hình sáng suốt hơn một người ít học hay vô học.

Nhưng trong môi trường chính trị, một môi trường chứa đầy thủ đoạn, dối trá, bịp bợm, đôi khi có những người trí thức vẫn có óc suy luận ngây thơ như một con nai tơ để rội bị lường gạt. Lý trí đầu óc của họ đã bị trái tim yêu thương lấn át để rồi sau đó phải sống những chuỗi ngày ân hận, ray rứt và hối tiếc. Cần phải quân bình yêu thương và lý trí mới mong có sự chọn lựa đúng đắn và chính xác trong lãnh vực chính trị vốn là một nơi chốn điên đảo có nhiều gió tanh mưa máu mà khả năng trí thức cao chưa đủ để có sự nhận định trung thực về những diễn tiến chính trị phức tạp và rối rắm.

Mới đây nhà xuất bản Tiếng Quê Hương ở Virginia có cho xuất bản cuốn sách “ Hồi ký của một thằng hèn “ của nhạc sĩ Tô Hải . Trong lời tựa đề cho cuốn sách , nhà văn Lê phú Khải có kể chuyện về sự thú nhận sai lầm cuối đời của Bác sĩ Nguyễn khắc Viện như sau:

“ *Ðọc” Hồi ký của một thằng hèn” của nhạc sĩ Tô Hải, tôi bất giác nhớ đến Bác sĩ Nguyễn khắc Viện. Ông là một trí thức Việt kiều, rất hăng hái hoạt động trong phong trào Mác-xít, đảng viên Ðảng Cộng sản Pháp, đã tình nguyện về nước để tham gia kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hăng hái là thế, mà ỡ tuổi ngoài tám mươi, khi làm bản tổng kết đời mình, ông đã phải thốt lên “ Ðời tôi là đời của một thằng ngây thơ. Trong hai chữ “ thơ “ và chữ “ ngây “ tôi xin giữ lại cho mình cái chữ “ thơ “ vì đã đi theo kháng chiến, còn cái chữ “ ngây” để chỉ cái sự đi theo chủ nghĩa xã hội thì xin ..vứt nó đi!”*

Nguyễn khắc Viện tự đánh giá như thế là khách quan. Cần phải tách bạch hai chuyện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cái gọi là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Một đàng là hành động theo lương tâm, một đàng là hành động theo người khác khuyến dụ, và cả ép buộc nữa.*

Tô Hải và Nguyễn khắc Viện: hai con người, hai số phận, cả hai đều được nhà nước tặng nhiều huân chương “ cao quý “, nhưng cái tương đồng giữa hai người là ở chỗ họ đều thiết tha yêu nước, nhưng không thể yêu xã hội chủ nghĩa “.

Ai cũng biết Bác sĩ Nguyễn khắc Viện ngoài bằng cấp của một bác sĩ chuyên nghiệp, ông còn là một nhà ngữ học tài ba. Ông đã dịch Truyện Kiều của Nguyễn Du ra Pháp văn. Và vào cuối đời ông được chính phủ Pháp trao giải thưởng về những công trình văn hóa viết bằng tiếng Pháp của ông. Một người trí thức hàng đầu như thế mà cuối đời cũng thú nhận là đã ngây thơ khi đi theo chủ nghĩa xã hội, một chủ nghĩa có nội dung rất đẹp trên giấy trắng mực đen nhưng là một địa ngục kinh hoàng khi xây dựng. Con tim ông sôi nổi nồng nàn thiết tha, quá mê mệt cái thiên đường xã hội chủ nghĩa mà bộ óc trí thức của ông không kềm chế và kiểm soát nổi để rồi khi về già trở nên hối tiếc ân hận vì mình đã bỏ công sức ra xây dựng một chủ nghĩa không tưởng . Dĩ nhiên Bác sĩ Nguyễn khắc Viện không phải là người trí thức duy nhất bé cái lầm về chủ nghĩa xã hội, còn có biết bao nhiêu trí thức phương Tây và Việt Nam cũng sai lầm như ông khi coi chủ nghĩa xã hội là con đường đi đến sự toàn thiện toàn mỹ cho xã hội loài người. Dù sao cuối đời ông cũng có đủ cái lương thiện trí thức để nói ra cái ngây thơ dại dột của mình. Hy vọng lỗi lầm tự bạch của ông sẽ giúp nhiều người khác tránh khỏi vết xe đổ mà ông đã đi qua. Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần, Nguyễn khắc Viện thấy ra cái dại của mình vào lứa tuổi ngoài tám mươi. Dù có trễ tràng nhưng còn nhìn ra còn hơn không. Biết bao nhiêu trí thức khác còn mơ màng ảo tưởng về cái chủ nghĩa xã hội phản khoa học và phi nhân bản này.

Một người trí thức thứ hai hàng đầu của miền Nam cũng mang bệnh” ngây thơ “ về chính trị là Học giả Nguyễn hiến Lê. Ông Lê đúng là một trí thức tháp ngà, suốt ngày đóng cửa để đọc sách và viết sách. Ông tự hào là người còn viết nhiều còn hơn Học giả Trương vĩnh Ký. Cả đời ông , ông viết khoảng chừng 30000 trang sách. Ông viết đủ mọi thể loại, đề tài như văn học, chính trị, toán học, học làm người v..v. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, những diễn tiến chính trị tàn nhẫn đã làm ông sững sốt như bị tạt một gáo nước lạnh vào mặt. Những suy nghĩ về diễn tiến chính trị ở miền Nam của ông coi như sai bét. Ông viết hồi ký nói lên sự suy nghĩ non dại của mình trước những sự kiện phũ phàng của cuộc đời. Kiến thức ông bao la nhưng ông thiếu một yếu tố quan trọng làm nhận định thời cuộc của ông sai bét vì ông không có kinh nghiệm thực tế . Muốn có những nhận định chính xác về thời cuộc thì kiến thức chưa đủ mà cần bổ túc thêm kinh nghiệm thực tế thì mới mong có những phán đoán chính xác. Hồi ký Nguyễn hiến Lê nói rõ diễn tiến sự suy luận của ông về tình hình chính trị miền Nam như sau :

“..*Khi hội nghị Paris kết thúc năm 1973, chúng tôi mừng rằng chiến tranh sắp chấm dứt sau non ba chục năm dai dẳng, khốc liệt, toàn dân sẽ nắm tay nhau kiến thiết quốc gia. Tôi không đọc được toàn văn Hiệp ước đó, chỉ do báo chí mà biết đại khái rằng Bắc Việt, Mỹ, Mặt Trận Giải Phóng và Chính phủ dân chủ miền Nam: người của Mặt trận, người của chính phủ miền Nam thỏa thuận với nhau sẽ có ba thành phần ở miền Nam: người của Mặt trận, người của chính phủ miền Nam, và một số người ở trong nước và ngoài nước, không theo phe nào ( tức thành phần thứ ba ) ở giữa dung hòa hai thành phần trên.

Tôi đoán công việc đó khó khăn nhưng có thể thực hiện được nếu những người trong sạch, có tư cách, nhiệt tâm ở miền Nam và ở ngoại quốc về chịu ra đảm đương việc nước, và nếu Mặt trận vẫn tỏ ra vẻ ôn hòa như họ thường tuyên bố. Như vậy, sau bốn năm năm, miền Nam ổn định rồi, có thể thống nhất quốc gia được, Bắc Nam dung hòa nhau, Nam hồng thêm lên một chút, để cùng nhau kiến thiết mà tạo hạnh phúc cho dân. Riêng tôi, tôi sẵn sàng bỏ một ít tự do đi, sống thanh bạch hơn nữa, miễn là hết thấy cái nạn tham nhũng, ăn cắp, ăn cướp, phè phỡn, bóc lột và thấy con người có tư cách hơn. Tôi vẫn thường nói với nhà tôi: cộng sản vào đây thì chỉ nội 48 giờ là hết cái tệ đó.

VIỆT NAM BI NGA TAU CHIA DOI THANH 2 MIEN NAM BAC: DE DANH GIET NHAU

Nhưng hiệp định Paris vừa mới ký xong – tất nhiên có chữ ký của Nga, Trung Hoa và một số nước khác như Pháp, Anh..- hai bên trao đổi tù binh với nhau xong, Mỹ rút hết quân về rồi thì chiến tranh lại tái diễn. Thế là hiệp định chưa ráo nét mực đã bị xé bỏ. Tôi không hiểu có một sự thỏa thuận ngầm nào giữa các cường quốc nắm vận mạng của Việt Nam không, có những uẩn khúc, những bí mật nào không. Theo luật quốc tế, phải 50 năm sau, những bí mật đó mới được công bố, lúc đó những kẻ chịu trách nhiệm chết hết rồi.

Một bên ( Bắc ) mới thắng Mỹ về ngoại giao, rất phấn khởi, khí thế đương hăng; một bên ( Nam) bị Mỹ chẳng nghĩ gì đến liêm sỉ, nhẫn tâm bỏ rơi, vừa uất ức vừa thất vọng, thì phần thắng về ai, điều đó rất dễ hiểu. Quân Bắc tiến tới đâu, dân chúng một phần sợ những vụ chém giết, chôn sống như ở Huế tết Mậu Thân, dắt díu, bồng bế nhau bỏ chạy; một phần ghét Mỹ, ghét chính phủ Thiệu, theo quân đội giải phóng, cho nên cuộc tiến quân của Bắc dễ như chẻ tre, chỉ trong ít tháng chiếm trọn miền cao nguyên và miền Trung, gần tới Biên Hòa. Tổng thống Dương văn Minh biết chống cũng vô ích, xin hai bên ngừng chiến để đỡ chết dân và chính quyền miền Nam chờ đợi quân đội miền Bắc vào Sàigòn để giao lại quyền hành, nói tóm lại là xin đầu hàng vô điều kiện; và ngay 12 giờ trưa ngày 30-4 tướng Trần văn Trà của Mặt trận ngồi xe thiết giáp tiến vào dinh Ðộc Lập. Sự thắng lợi đó quả là vẻ vang cho miền Bắc, nhưng xét kỹ thì cũng như sự thắng lợi của quân đội Mao trạch Ðông năm 1949 (cũng chỉ trong có mấy tháng họ tiến từ Nam Kinh tới biên giới Bắc Việt); và cũng như sự thắng lợi của Khmer đỏ ( ngày 17-4) khiến Lon Nol phải bỏ nước để thoát thân như Nguyễn văn Thiệu. Ðại sứ Mỹ phải nhục nhã cuốn cờ bỏ Nam Vang mà về nước, và Khmer Ðỏ vào Nam Vang 13 ngày trước Cộng sản Bắc Việt vào Sài gòn.

Từ ngày 20-4-75 Sài Gòn rất xôn xao. Một ông bạn thân của tôi 65 tuổi, ở gần nhà tôi, đương đau mà gia đình cũng “ bốc “ lên phi cơ để tỵ nạn, mới tới Manila thì chết, phải chôn ở đó. Một cô em ruột nhà tôi, cô Trịnh thị Mộng Ðơn cũng dắt con lên phi cơ qua với chồng bên Mỹ.

Rồi chính cô em út của tôi, Nguyễn thị Mùi, gần 60 tuổi, cũng theo gia đình bên chồng qua Mỹ; vợ chồng tôi giữ lại ở với chúng tôi, cô không chịu.
Trong số ba người em, tôi mến cô nhất, mà cô cũng quý tôi. Cô làm dâu họ Tô ở Hà Nội, có ba người con đều vào hạng học giỏi. Con gái lớn, Tô lệ Hằng, đậu tiến sĩ vật lý, tính tình hợp vói tôi, hiện ở Pháp, giúp đỡ tôi được nhiều việc, vợ chồng tôi coi ba cháu đó như con. Cô đi rồi, ở Sài gòn tôi không còn ai ruột thịt cả.

Mấy ngày hạ tuần tháng 4 dương lịch đó tôi vẫn nghĩ tình hình không có gì bi đát lắm đến nỗi phải di cư. Quân Bắc có tiến vào Sài gòn thì Nam Bắc cũng thương thuyết với nhau- trước Bắc chỉ đòi Mỹ rút đi, Thiệu rút đi, thì bây giờ họ rút cả rồi, còn muốn gì nữa ? – mà hiệp định Paris còn đó, Bắc phải thi hành chứ. Tôi ngây thơ quá.

( Hồi ký Nguyễn hiến Lê ( tập 3) trang 20, 21, 22, 23, nhà xuất bản Văn Nghệ , Hoa Kỳ )

Ðọc những suy nghĩ đơn giản về diễn tiến chính trị mà thấy tội nghiệp cho học giả Nguyễn hiến Lê. Ông quá mơ màng ảo tưởng về cách đối xử đàng hoàng của Bắc quân sau khi chiếm được miền Nam. Thực tế phũ phàng đã dội một gáo nước lạnh vào mặt ông khiến ông tỉnh người và thốt lên “ *Tôi ngây thơ quá*“ Thật ra ông có cảm tình với kháng chiến ( cộng sản ) từ lâu nên cuộc cách mạng cải cách ruộng đất kinh khiếp và tàn bạo ở miền Bắc sau 1954 và sự tàn sát kinh hoàng tại Huế trong trận Mậu Thân 1968 cũng không làm ông thấy rõ hơn về bản chất tàn bạo khát máu của bọn Cộng sản Việt Nam nên ông vẫn có những ý nghĩ tốt đẹp và tích cực về bọn thú đội lốt người này. Biến cố 30 tháng 4 năm 75 đã mở mắt cho ông và những người khác đến nỗi nhạc sĩ mù Văn Vỹ cũng phải “ mở mắt “ ra chứng kiến sự độc ác, lưu manh của bọn Việt Cộng ! Rồi đến suy nghĩ ngây thơ của ông khi cho rằng Cộng sản vào thì miền Nam sẽ chấm dứt nạn tham nhũng! Ông Lê mất năm 1984, nếu ông sống thêm ít năm nữa, ông sẽ thấy nạn tham nhũng trong chế độ Cộng sản còn gấp trăm ngàn lần chế độ miền Nam. Ðây lại là một suy nghĩ dễ dãi của ông, một trí thức tháp ngà, không có điều kiện cọ xát vói thực tế nên cứ suy đoán viễn vông sai sự thật.

Ông Lê phát hiện ra yếu tố phải sống mới hiểu chứ không thể hiểu một chế độ qua sách vở nên ghi thêm suy nghĩ của mình như sau :

“ *Ðiều đó ai cũng biết nhưng muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ dăm năm. Ðó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi và có lẽ cả 90% người miền Nam rút được từ 1975 tới nay. Muốn nghe ai phê bình, khen chê gì thì nghe, muốn đọc sách gì thì đọc, dù là người thông minh , chịu suy nghĩ, cũng chỉ biết lờ mờ một chế độ thôi .”*

* ( Hồi ký Nguyễn hiến Lê, tập 3 trang 25, 26) *

Dù sao Nguyễn hiến Lê là người không tham gia sinh hoạt chính trị, chuyện ông sai lầm trong nhận định cũng là chuyện thường tình. Ngay cả những người có chức vụ cao trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũng sững sờ thấm thía trước sự lật lọng của Cộng sản miền Bắc sau 1975. Trương như Tảng, nguyên bộ trưởng tư pháp của Mặt Trận Giải Phóng miền Nam, lên thuyền vượt biển để sau này định cư ở Pháp. Bác sĩ Dương quỳnh Hoa, nguyên bộ trường y tế của MTDPMN, làm đơn xin rút ra khỏi Ðảng vì nhìn thấy sự tàn ác bất lương lật lọng của bọn Cộng sản miền Bắc. Ðây có thể nói là những con nai tơ ngây thơ trong chính trị. Trước đây họ vào Ðảng với ước mong cứu nước , cứu dân. Nào ngờ sau chiến thắng năm 1975, Ðảng hiện nguyên hình là một đảng cướp lưu manh dối trá cùng cực không còn có thể chấp nhận được. Tiếc thay, biết khôn thì sự đã rồi ! Dương quỷnh Hoa từ trần ở Sài Gòn ngày 25 tháng 2 nàm 2006. Cả cuộc đời Dương quỳnh Hoa coi như tan nát vì mắc lừa Cộng sản.

Nói chung, Trương như Tảng và Dương quỳnh Hoa đã từ bỏ địa vị xã hội, cuộc sống giàu sang phú quý để vào bưng chiến đấu cho lý tưởng độc lập tự do, công bằng xã hội theo sự dụ dỗ của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Họ ngây thơ tưởng rằng sự xả thân của họ sẽ đóng góp vào nền độc lập của tổ quốc và sự no ấm, hạnh phúc của đồng bào. Sau ngày chiến thắng của Cộng sản năm 1975, họ mới sững sờ nhìn thấy cái xấu xa lật lọng vô bờ bến của bọn Cộng sản miền Bắc. Họ phải trả một giá rất đắc cho sự ngây thơ chính trị của mình.

Trương như Tảng có kể chuyện trong hồi ký của mình là sau 1975, Trương như Tảng có dự một cuộc duyệt binh trước dinh Ðộc Lập. Tảng đứng gần Ðại tướng Cộng sản miền Bắc Văn tiến Dũng. Tảng lên tiếng hỏi Dũng, “ Sao những sư đoàn của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đâu rồi? “ Dũng nhếch mép cười mỉa mai, “ Quân đội đã thống nhất “. Tảng choáng váng trước câu trả lời thẳng thừng và lạnh lùng của Dũng và đủ thông minh để hiểu là Cộng sản miền Bắc đã cho giải giới Mặt Trận khi chuyện xâm chiếm miền Nam đã hoàn thành.

Dĩ nhiên Cộng sản miền Bắc đã “ vắt chanh bỏ vỏ “ , đã dẹp ngay Mặt Trận Giải phóng Miền Nam sau ngày chiến thắng. Chúng chỉ sử dụng Mặt Trận như một công cụ dể che mắt quốc tế trong chuyện xâm lăng miền Nam mà thôi. Xong chuyện rồi là chúng dẹp bỏ Mặt Trận một cách không kèn không trống, không thương tiếc. Trương như Tảng còn kể thêm một chuyện nữa trong hồi ký của ông là khi ông bị chính quyền miền Nam bắt giam vì tìm ra ông có liên hệ với Cộng sản. Cha ông vào thăm ông trong nhà giam và đau đớn nói với ông, “ *Cha không hiểu sao con từ bỏ đời sống vinh hoa phú quý, hạnh phúc gia đình để theo Cộng sản để rồi bây giờ phải chịu cảnh tù tội, thân tàn ma dại như thế này !* “ Dĩ nhiên Trương như Tảng từ bỏ tất cả sự nghiệp và hạnh phúc gia đình để đi theo lời dụ dỗ cứu nước cứu dân đẹp đẽ và cao quý của Cộng sản.
Ðến ngày chiến thắng , bọn quỷ đỏ mới lòi ra bộ mặt bất nhân, tàn bạo làm cho Tảng mới vỡ mặt và không còn chịu đựng nổi để rồi phải lên thuyền vượt biển ra đi tìm tự do như bao nhiêu đồng bào Việt Nam khác không sống nổi dưới chế độ Cộng sản hà khắc, độc ác.

Loại trí thức du học ở Pháp như Bác sĩ Dương quỳnh Hoa, Giám đốc nhà máy đường Sài gòn Trương như Tảng mà còn ngây thơ để cho Cộng sản dụ dỗ, lường gạt thì nói gì đến loại nông dân, công nhân ít học như Võ thị Sáu, Nguyễn văn Trỗi thì lại càng dễ bị lôi cuốn vào tham gia hoạt động cho Cộng sản sau khi nghe lời đường mật lôi cuốn của chúng.

Không phải chỉ có những trí thức như Nguyễn khắc Viện, Nguyễn hiến Lê, Trương như Tảng, Dương quỳnh Hoa là ngây thơ với Cộng sản đâu. Ngay cả ông vua của nước Việt Nam là vua Bảo Ðại cũng mắc lừa bọn Cộng sản gian manh.

Học giả Trần trọng Kim ( nguyên là thủ tướng trong chính phủ Bảo Ðại) có kể chuyện trong hồi ký “ Một cơn gió bụi” của ông là vào năm 1946 khi ông qua Hương Cảng ( Hồng Kông) gặp vua Bảo Ðại đang sống lưu vong. Lúc gặp nhau, lời nói đầu tiên mà vua Bảo Ðại nói với cụ Trần là : “ Chúng mình già trẻ mắc lừa bọn du côn”* ( Hồi ký “ Một cơn gió bụi “ của Trần trọng Kim , trang 146). Chữ du côn mà vua Bảo Ðại nói ở đây để nói đến Hồ chí Minh và tổ chức Việt Minh của Hồ. Khi nói bị mắc lừa, có nghĩa là vua Bảo Ðại chấp nhận mình đã ngây thơ tin nghe Cộng sản. Chữ “ du côn “ mà vua Bảo Ðại dùng để chỉ Hồ chí Mình và tổ chức Việt Minh thật là quá đúng vì lúc ấy chúng đã lộ rõ nguyên hình là một bọn du côn, du đãng, lưu manh tàn bạo đối với các đảng phái quốc gia khác trong cuộc chiến chống thực dân Pháp. Khi vua Bảo Ðại thoái vị để trao quyền cho Việt Minh và sau đó nhận chức “ cố vấn tối cao “ cho chính phủ Hồ Chí Minh, ông đã nói một câu bất hủ để đời “ Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ “ . Tiếc thay vua Bảo Ðại không thể làm công dân một nước độc lập trong chế độ Hồ Chí Minh bịp bợm vì độc lập chỉ là cái bánh vẽ để dụ dỗ những người yêu nước theo Cộng sản. Vua Bảo Ðại đã nhìn thấy con người gian manh, quỷ quyệt của Hồ chí Minh khi ra Hà Nội cộng tác với Hồ và rốt cuộc đã phải bỏ nước ra đi lưu vong để rồi không bao giờ trở lại quê hương Việt Nam nữa. Thật ra một người sống trong cung vàng điện ngọc từ nhỏ đến lớn như vua Bảo Ðại làm sao hiểu thấu những trò đểu giả, dối trá của thứ người hạ cấp bồi tàu, đầu đường xó chợ như Hồ chí Minh để rồi bị con cáo già này gạt gẫm. Có điều đáng buồn là từ khi lưu vong cho đến khi gửi nắm xương tàn trên đất Pháp, vua Bảo Ðại chưa một lần được về Huế thăm mẹ là Ðức Từ Cung. Cả ba chính phủ đệ nhất, đệ nhị Cộng Hòa của miền Nam và chế độ Cộng sản đã không tạo điều kiện cho vua Bảo Ðại làm bổn phận của một người con, về Việt Nam thăm viếng người mẹ già bao năm xa cách . Cả ba chế độ đều không có được một cử chỉ nhân ái dành cho với một ông vua tuy bất tài nhưng hiền lành vô tội này.

4-75 KET THUC CHIEN TRANH NGUOI VIET GIET NGUOI VIET: VIET CONG THANG TAY TRA THU VA CUOP PHA

Chuyện những nhà đại trí thức ngây thơ với Cộng sản trước 1975 đã không mở mắt được cho một số tổ chức hiện đang đấu tranh chống cộng dỏm ở hải ngoại. Chúng mang danh chống cộng như vẫn mơ màng ảo tưởng cộng tác với Cộng sản để mong kiếm ghế trong chính phủ Cộng sản ở quốc nội. Chúng cho người điều trần trước quốc hội các nước Âu Mỹ nói tốt cho Cộng sản để mong chiếm cảm tình với Cộng sản với mong ước Cộng sản sẽ chia cho chúng chút cơm thừa canh cặn về quyền lực chính trị sau này. Không ai khác mà chính là Ðảng Việt Tân cuả Hoàng cơ Ðịnh. Từ một đảng chống cộng chúng biến thành một đảng hợp tác với Cộng sản để mong chia chác quyền lực. Có lẽ con đường đấu tranh gian khổ đổ xường đổ máu dài lâu làm chúng nản chí và mong đi con đường tắt để có quyền lực là hợp tác với Cộng sản. Dĩ nhiên chúng chỉ làm trong sự dấu diếm khốn nạn trước sự khinh bỉ và nguyền rủa của người Việt hải ngoại. Tội nghiệp cho sự ngây thơ đáng nguyền rủa của chúng . Ðồng bào hải ngoại cần phải nhìn cho rõ bộ mặt nham nhở khốn nạn của những tổ chức chống cộng cuội này. Chúng hội họp khua môi múa mỏ ở đâu thì cũng nên mang cà chua trứng thối đến để tặng chúng. Bao nhiêu kinh nghiệm cay đắng của những người đã từng hợp tác với Cộng sản cũng không làm cho chúng mở mắt ra được vì giấc mơ quyền lực đã làm chúng u mê nên chúng đi theo đường làm tay sai cho Cộng sản mặc dù chúng mang danh nghĩa chống cộng. Thật đáng nguyền rủa và lên án cho bọn súc vật “xanh vỏ đỏ lòng “ này.

Người dân Việt nam hiện nay không những chán ghét Cộng sản vì chế độ chúng bất công, tham nhũng mà còn bất bình bức xúc về chuyện Cộng sản Việt Nam bán đất, dâng biển cho Trung Cộng và đem công nhân Tàu đỏ vào khai thác bô-xít ở Tây nguyên gây nên hiểm họa về môi trường sinh thái và nguy cơ mất nước. Người dân chắc chắn sẽ hưởng ứng tham gia lời kêu gọi “ bất tuân dân sự- biểu tình tại gia “ do Hòa Thượng Quảng Ðộ vào tháng 5 – 2009 sắp tới.
Cuộc đình công bãi thị này chắc chắn sẽ có sức ép rất lớn làm lung lay và rung rinh chế độ Cộng sản Việt Nam, một chế độ chỉ sống bằng bạo lực, dối trá và giờ đây cam tâm làm tay sai cho Trung cộng, bán tháo bán đổ mảnh giang sơn gấm vóc Việt Nam cho ngoại bang để mong duy trì quyền lực thống trị của chúng. Năm 2009 chắc chắn sẽ là một năm nay đầy biến động, làm lung lay tới gốc rễ chế độ gian ác Việt Cộng để từ đó đưa đến sự sụp đổ một ngày không xa. Biết bao lọc lừa, gian trá do chế độ Cộng sản này gây ra sẽ tan biến đi nhường chỗ cho một chế độ dân chủ đích thực, nhân bản, tự do để từ đó nhân dân Việt Nam nắm tay nhau xây dựng lại đất nước rách nát đau thương trong nền độc lập , tự chủ mới giành lại được.

Xin kết thúc bài viết bằng 2 bài thơ của nhà thơ Nguyễn chí Thiện, một người ngồi tù Cộng sản suốt 27 năm, để vạch ra cái gian trá lật lọng của Cộng sản với ước mong kể từ nay sẽ không có ai ngây thơ tin tưởng vào những lời đường mật tuyên truyền của Cộng sản nữa. Qua năm tháng, sự dối trá đã phơi bày trơ trẽn và không còn có khả năng lừa bịp người nhẹ dạ được nữa.

Ðảng C đã cho tôi sáng cắc sáng lòn

Trước như trẻ thơ tôi nào biết được

Cộng sản là quân bất nhân tàn ngược

Thắt cổ dân đen đủ các loại tròng !

( Những suy nghĩ vụn vặt số 121)


MỖI LẦM LỠ

Mỗi lầm lỡ, một mảnh lòng rạn vỡ

Song thời gian hàn gắn được đôi phần

Riêng cái lầm nơi đất đỏ dung thân

Thời gian khoét to và sâu, bất tận !

Cuộc đời tôi có nhiều lầm lẫn

Lầm nơi, lầm lúc, lầm người

Nhưng cái lầm to uổng phí cả đời

Là đã ngốc nghe và tin Cộng sản !

( 1963)

Ngày mà chế độ không còn lừa bịp được người khác nữa là ngày bị đào thải, sụp đổ. Có điều đáng buồn là phải mất vài thế hệ mới gột rửa và xóa bỏ hết bao tàn tích dối trá, lọc lừa mà Cộng sản đã gieo rắc trong hơn nửa thế kỷ vào con người và xã hội Việt Nam,

Los Angeles, một trưa vắng lặng có nắng vàng hoe và chim kêu ríu rít giữa tháng 4 năm 2009

TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG