Chủ Nhật, 7 tháng 11, 2010

SO SANH TOI AC HO CHI MINH VOI NHUNG TEN DOC TAI KHAT MAU TREN THE GIOI

Với con người, một ác nhân hay một chế độ ác độc trước khi chết cũng thế, nhưng xen lẫn với những cố gắng tuyệt vọng, ác nhân hay chế độ ác độc thường làm những hành động cực kỳ phi lý. Ngoài ra, thực tế lịch sử còn cho thấy có một chỉ dấu chung cho thấy các chế độ “cùng hung cực ác” này là sự non yểu của chúng. Các chế độ bạo quyền thường không thọ lâu dài, so với tuổi thọ của thế giới hay của một quốc gia. Hãy điểm qua vài khuôn mặt đại diện cho các chế độ “cùng hung cực ác” như sau:


-Nero, Đại Hoàng đế của Đế Quốc Roma, chỉ sống huy hoàng có 14 năm, từ năm 54 đến 68 sau Công Nguyên. Trước khi chết, ông ta đã làm rất nhiều việc kinh thiên động địa, giết người hàng loạt, tiêu hủy nhiều quốc gia, lãnh thổ. Việc ác độc nhất mà ông ta làm là giết anh và giết luôn cả mẹ. Để xây dựng thành La mã mới, ông ra lệnh đốt thành Rome rồi trong đám lửa cháy hừng hực, trong mùi khét của hàng vạn thây người, ông mặc áo của nghệ sĩ trình diễn, đứng trên bao lơn mênh mông của mình, gẩy thất huyền cầm (lyre), và hát. Sau những biến cố này, ông bị toàn thể Nghị Viện tuyên bố án tử. Ông chạy trốn, nhưng khi biết không thể thoát, ông trở về hoàng cung, tự cầm dao nhỏ đâm vào cổ mình.

-Tần Thủy Hoàng, một bạo chúa của Trung Hoa, người đã gồm thâu 6 nước vào trong tay, biến lục quốc thành một nước Trung Hoa vĩ đại.Nhưng thiên hạ chỉ nhớ đến ông như một ác nhân, kẻ giết mẹ và người tình của mẹ. Những việc ác kinh dị của ông là phí cả triệu người để xây Vạn Lý Trường Thành, đốt sách, chôn học trò. Số nhà nho bị chôn sống riêng ở Hàm Dương là 460 người. Sau đó, vì các nhà nho đông quá, ông ra lệnh đem đầy ra ngoài biển, ra các đảo hoang cho chết dần. Hành vi ác độc cuối cùng này đẩy ông tới chỗ chết. Ông chỉ sống được 49 năm, từ 259 đến 210 trước Công Nguyên.

-Một ác nhân khác mà chúng ta vẫn thường nghe nhắc đến là Hitler. Ông ta chỉ thống lãnh thiên hạ có 12 năm, từ 1933 đến 1945. Năm 1933, Hitler được phong làm Chancellor tức là Thủ Tướng nước Đức, đồng thời cũng là Fuhrer, nghĩa là người đứng đầu quốc gia. Những việc ác mà Hitler thực hiện thì không thể kể hết được trong một số trang sách cũng như qua nhiều tiếng đồng hồ diễn giải, chỉ có thể nói được là trước khi ông ta dẫy chết, Hitler đã quay lại giết chính những đồng chí của mình, bằng cách xử treo cổ và xử bắn hàng loạt. Những hành động ác độc cuối cùng này đã đẩy Hitler đến chỗ bị các đồng chí bỏ rơi. Khi Hitler tự bắn vào đầu mình và người yêu của mình năm 1945, thì bên cạnh ông ta chỉ còn vài người thân tín, sau đó tất cả cũng bị treo cổ bởi Nga và quân Đồng Minh.

-Còn Joseph Staline, sau khi Lênin chết năm 1924, đã leo lên được đến chỗ uy quyền tột đỉnh rồi chỉ sống được đến 1953. Với chức vụ Tổng Bí Thư của Đảng Cộng Sản của Hội Đồng Trung Ương Liên Bang Sô Viết, Staline đã ra lệnh giết và thủ tiêu gần 10 triệu người trong các nước Cộng Sản. Việc ác cuối cùng của tên đồ tể khát máu này là dựng nên vụ “Kế Hoạch của các bác sĩ” (Doctors’ plot) và cho rằng người Do Thái đang chuẩn bị âm mưu tấn công các sĩ quan Sô Viết, để ra lệnh cho lưu đầy toàn bộ dân Do Thái vào các trại tập trung. Staline nói rằng “mọi thằng Do Thái đều là gián điệp”, để thực hiện chiến dịch tiêu diệt người Do Thái này. Rất may, là Staline đã bị đầu độc chết bởi chính đồng chí của mình, Beria, trùm an ninh sô viết. Ngay sau khi Staline chết, Beria đứng và nhổ bọt vào thi thể của tên đồ tể này.

-Về các chế độ bạo quyền, chúng ta thấy rằng Ba Lan đỏ, khi ấy bị cai trị bởi Yaruzelski, một tên Cộng Sản khát máu nhưng nhu nhược, bất nhất. Hàng triệu người bị thủ tiêu, giam cầm trong các trại lao động khổ sai. Nhưng cũng vì sự nhu nhược của hắn mà Lech Walesa, một công nhân trí thức đầy nhiệt huyết đã thành lập được tổ chức phong trào Liên kết (Solidarity), từ 1981, để kết hợp các công nhân. Thoạt tiên, Jaruzelski cố gắng dập tắt phong trào này và buộc họ phải trốn lánh. Nhưng dưới sự hỗ trợ của Vatican, phong trào đã bộc phát trở lại. Cùng với các cuộc cải tổ Perestroika và Glasnost ở Nga Sô khởi đi từ 1984, phong trào Liên Kết của Ba Lan đã buộc nhà cầm quyền cộng sản phải ký một bản nhân nhượng ngày 9 tháng 2 năm 1989 đồng ý tổ chức một Hội Nghị Liên Kết công nhân và nhà cầm quyền. Từ đó, chế độ Cộng Sản Ba Lan cáo chung. Ảnh hưởng của việc Ba Lan tự do, Hungary cũng phải thay đổi. Vào tháng 8 năm 1989, Hungary mở cửa bức rào sắt với Áo. Lợi dụng sự mở cửa này, dân Đông Bá Linh đã trốn qua Áo băng qua Hungary hàng chục ngàn người.

-Sự kiện này tiếp theo sự kiện kia, Erich Honecker, thủ lãnh của Đông Bá Linh phải từ chức vào 18 tháng 10 năm 1989. Vào lúc 6 giờ 53 chiều ngày 9 tháng 11 năm 1989, một nhân vật thủ lãnh của Đông Bá Linh trả lời một cuộc họp báo về vấn đề cho phép đi qua biên giới Tây Bá Linh, ông ta trả lời ngập ngừng: “Vâng, như tôi thấy, có hiệu lực ngay bây giờ.” Thế là, lập tức hàng chục ngàn người Đông Bá Linh tràn ra đường, đập phá tan tành bức tường ngăn cách Đông và Tây Bá Linh, mở đầu cho giai đoạn mới, chấm dứt chế độ bạo tàn Cộng Sản tại nước Đức.

-Về nước Cộng Sản Nga Sô, sau khi chính sách Perestroika và Glanost của Gorbachev chưa thành công hoàn toàn, một cuộc đảo chính của phe hữu và lãnh tụ của KGB nổ ra tại Moscow. Lúc ấy, năm 1991, Gorbachev đang đi nghỉ mát tại Crimea. Boris Yeltsin lợi dụng cơ hội, nhẩy ra nắm chính quyền. Và, từ đó, xã hội Nga Sô mới thực sự thay đổi.

-Cuối cùng là Hồ Chí Minh, thủ phạm gây chiến tranh Nam Bắc, kẻ đã ra lệnh giết vài trăm ngàn người trong chiến dịch Đấu Tố, sau đó, sửa sai bằng cách xử tử những cán bộ đã thi hành lệnh Đấu Tố của ông ta. Chính Hồ Chí Minh, trước khi chết, đọc bài thơ chỉ thị cho cuộc tấn công Tết Mậu Thân nướng gần trăm ngàn bộ đội, và vài chục ngàn quân nhân và dân sự miền Nam. Riêng ở Huế, với lệnh của Hồ Chí Minh, bọn đồ tể khát máu đã giết gần 6000 người vô tội bằng cách xỏ xâu, rồi xử bắn, hoặc đập đầu bằng cuốc cho chết. Hàng chục nấm mồ tập thể được tìm thấy với những thây người bị đập chết như mèo chó. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, Hồ chí Minh biến thành cái xác thối rữa nằm trong Ba Đình.
Nhìn lại tình hình Việt Nam ngày nay, chúng ta cũng thấy đảng Cộng Sản Việt Nam đang làm rất nhiều những hành động cực kỳ phi lý.

1-Cúi đầu nhục nhã dâng cống đất nước Tổ Tiên cho Trung Cộng. Ngoài việc nhượng Tây Nguyên cho Trung Cộng, xua đuổi dân chúng ra khỏi miếng đất sinh sống của họ, và gây họa cho dân chúng với các phó sản của Bâu xít như bụi đỏ, đất đỏ, và các chất hóa học, Cộng Sản VN còn nhục nhã cúi đầu để mặc Trung Cộng chiếm luôn Biển Đông, măc cho ngư phủ bị đâm, bị bắt cóc đòi tiền chuộc, mặc cho ngư dân ở nhà chờ chết đói. Miền cực bắc, từ Móng Cái trở lên, đã lặng lẽ trở thành các sân Golf khổng lồ của trung Cộng. Các đảo nhỏ ở chung quanh miền cực bắc này cũng lặng lẽ trở thành đảo của Trung Cộng. Dân chung quanh vùng Móng Cái chuyển sang nói tiếng Quan thoại thay vì tiếng Việt. Và giống như ở Thác Bản Giốc, dân chúng tiếp cận biên giới được phát thẻ căn cước bằng chữ Trung Hoa. Thiếu nữ, phụ nữ Việt dần dần biến thành vợ của người Hoa, rồi đẻ con mang quốc tịch là người Hoa. Chung quanh các xướng, xí nghiêp của Trung Cộng, thợ Trung Cộng có thể tập hợp cả hai trăm người xông vào đánh cả làng Việt, mà Công An bỏ chạy trối chết. Nếu có người Việt nào xâm phạm vùng cấm địa của Trung Cộng, thì bị treo bêu ngoài nắng.Còn ngược lại, nếu thợ Trung Cộng có hãm hiếp phụ nữ bản xứ, sẽ được xử lý nội bộ trong phạm văn phòng của các Thái Thú.

Gần đây nhất, Cộng Sản Việt Nam đã cho Trung Cộng “trúng thầu” xây dựng đường cao tốc Bắc Nam, thợ Trung Cộng rồi đây tung tăng cùng khắp từ Nam ra Bắc. Như thế, coi như toàn bộ nước Việt thân yêu của mình nằm trong tay Trung Cộng mất rồi. Miền cực Bắc, thì Tầu Cộng chiếm làm cơ quan quân sự, làm sân Golf. Biển Đông nằm trong tay Trung Cộng. Miền Trung (Tây Nguyên) nộp dâng cho Trung Cộng. Bây giờ, ruột quê hương từ Nam ra Bắc cũng nằm dưới sự điều động của Trung Cộng!

Còn đâu quê hương? Còn đâu giải đất phì nhiêu từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu? Còn đâu Tổ Quốc đã ngàn năm anh dũng chống lại Nguyên, Mông, Thanh, Hán, Minh? Còn đâu đất nước anh hùng với các tên tuổi vang lừng thế giới: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, và các đời vua Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, rồi Quang Trung Đại Đế? Mai mốt, nếu nhân dân không ra tay, rồi Việt Nam sẽ biến thành một quận huyện của Tầu, như Tân Cương, như Tây Tạng, như Mông Cổ. Bản đồ Việt Nam sẽ đổi thành mầu Trung Cộng. Tự điển thế giới sẽ ghi chép: “Việt Nam = một phần đất đặt dưới quyền cai trị của Trung Hoa”. Những thế hệ sau sẽ không còn biết đến những anh hùng dân tộc, sẽ không còn nhớ đến hàng triệu chiến sĩ đã hy sinh để bảo vệ từng tấc đất ông cha. Họ sẽ không biết máu của các chiến sĩ yêu nươc đã đổ ra miên man, nếu trải ra được, chắc sẽ ngập cả nhiều vùng.

2-Đàn áp cực kỳ phi lý những người yêu nước:

Trong khi thi hành những hành động phản quốc này, các lãnh đạo Cộng Sản lại trấn áp chính những người yêu nước của mình. Cộng Sản Việt Nam cấm thanh niên, sinh viên không được biểu lộ tình yêu nước của họ, không được biểu tình, không được trương biểu ngữ chống Trung Cộng! Nhà cầm quyền bắt bớ giam cầm bất cứ ai nói lên tiếng nói yêu nước. Bao nhiêu thầy giáo, nhà văn, mục sư, linh mục, ni sư, thanh niên, sinh viên, “Blogger” và rất nhiều người bị bắt chỉ vì lên tiếng nói yêu nước. Nguyễn vũ Bình, Mục sư Nguyễn Công Chính, bố con Đoàn huy Chương, Đoàn văn Diên, Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Bá Đăng. Điếu Cầy, Trương minh Đức, Trần Quốc Hiền , Lê thị Kim Thu, Lê Thăng Long, Trần Anh Kim, Linh Mục Nguyễn Văn Lý.. cả gần ngàn người đều vào tù khi không có người nào mang tội với lương tâm mình.. Điều này chứng tỏ nhà cầm quyền đã công khai xác nhận họ chính là những tên nô lệ của Trung Quốc, chỉ biết hành động theo lệnh chủ.

3-Trù dập một cách không khoan nhượng những việc bảo vệ tài sản tư riêng của dân chúng. Từ Thái Hà, Tòa Khâm Sứ, Đồng Chiêm, Cồn Dầu…đến Tam Tòa, công anh đã xử dụng côn đồ dùng hung khí đánh đập dân công giáo, đánh cả linh mục, tu sĩ. Dư luận quốc tế đang đồng loạt tấn công Đảng Cộng Sản Việt Nam qua sự việc vô nhân và phi lý này.

4--Vi phạm nhân quyền trầm trọng. Để đối phó với các nhà tranh đấu cho dân chủ, họ đã dùng các biện pháp không có trong lịch sử văn minh, như dùng xe đụng người đối kháng Phương Thi, Hồ thị Bích Khương, đánh đập Bích Khương dã man, đổ phân tươi vào nhà Trần Khải Thanh Thủy, rồi dùng Super clue dán khóa của nhà văn này. Công an còn dùng búa chặt nhượng chân người biểu tình ôn hòa. Họ áp dụng luật Khẩn cấp để bắt các một loạt luật sư yêu nước; những tiếng nói bảo vệ dân chúng khỏi bị ức hiếp lại là đối tượng bị bắt nhốt nhiều nhất. Hiện nay, có 9 luật sư đang nằm trong tù không được xét xử, và không được quyền tự bảo vệ mình.

5-Cực kỳ phi lý khi cho Tổng Cục 2 bao trùm lên quân đội và chính trị. Những dấu hiệu dẫy chết đang lồ lộ hiện ra với những xáo trộn nội bộ. Tổng Cục 2, một bộ phận cực kỳ phi lý lại nằm trên quân đội và chính quyền. Theo báo cáo của tướng CS Võ Nguyên Giáp thì “Nguyễn Chí Vịnh đã “qua mặt”, đã “lừa” được hầu hết lãnh đạo cấp cao của Quân đội, Đảng, Nhà nước, thậm chí “bỏ túi” được các vị Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh, Phạm Văn Trà, Lê Văn Dũng, Nguyễn Huy Hiệu, Phạm Văn Long…” Thiếu Tướng và Đại Tá Công An bắt người tham nhũng lại bị nhốt vì tội “đã bắt người tham nhũng…” Phóng viên điều tra tôi tham ô, nhũng lạm lại bị tù vì tội “dám tố cáo kẻ tham nhũng”.. Vì nhìn thấy các tội ác tầy trời như thế của Đảng Cộng Sản mà rất nhiều đảng viên đã anh dũng từ bỏ đảng. Một số cựu đảng viên, bộ đội lại trở thành những chiến sĩ đấu tranh cho Dân Chủ và Tự Do không mệt mỏi, bất chấp việc có thể phải hy sinh chính mạng sống mình.

Chế độ dã man, tàn ác, bán nước như thế hiện đang dẫy chết qua những hành động đầy thú tính của họ. Một bài thơ “Một ngày phải khác mọi ngày” của một tác giả đang còn ở Việt Nam đã viết lên những dòng chữ cay đắng như sau:

Chào một ngày đất nước tự tiêu vong
Cỗi rễ văn hiến 4000 năm trốc gốc
Tuổi teen gối đầu giường Lý An, Ngô Vũ Sâm, Trương Nghệ Mưu, Trần Khải Ca
lạ hoắc
Panô giăng khắp nơi hình ảnh Củng Lợi, Chương Tử Di, Thành Long phơi phới
toét miệng cười
Chào một ngày phát triển giống đười ươi
Đi trên xã tắc thấy người thua xa khỉ
Thấy lô cốt ngáng đường, thấy nước ngập tận mông, thấy thánh hiền sợ quỷ
Thấy truyền thống chống ngoại xâm co rúm lại vì ... tiền

Chào một ngày vong bản vì ... hèn
Sống chết mặc bay, túi thầy vô cảm
Ải Nam Quan nằm ngoài ranh giới Việt Nam, xưa rồi Diễm...
Nước mắt Nguyễn Trãi khóc Nguyễn Phi Khanh rơi ở tận nước Tàu

Chào một ngày bãi biển hóa nương dâu
Thác Bản Giốc rời Cao Bằng như có cánh
Thắng cảnh để lại của tiền nhân bị cháu con ghẻ lạnh
Các di tích, kỳ quan cứ mất tích đều đều
Chào một ngày hình chữ S tong teo
Tài nguyên bôxít bị đào như bọ xít
Nhôm và đôla chẳng thấy đâu chỉ thấy đất Tây nguyên rên xiết
Ô nhiễm mạch ngầm, nước sông làm ngẹt thở Chín Con Rồng
Chào một ngày long mạch bị xới tung
Máu bầm đất đỏ bazan, máu tràn ra hải đảo
Ai cho phép Hoàng Sa, Trường Sa thành Tam Sa lếu láo
Tội nghiệp rừng cọc nhọn của Hưng Đạo Đại Vương trên sóng Bạch Đằng
Chào một ngày giống hệt cõi âm
Những xác chết anh hùng bật dậy
Máu trả máu, đầu trả đầu. Nhớ đấy !
Mãi quốc cầu vinh tất quả báo nhãn tiền
Chào một ngày soi rõ mặt anh em…

"Ngày soi rõ mặt anh em” nhất định đang đến gần.

Chu Tất Tiến

Chủ Nhật, 24 tháng 10, 2010

TOI AC CSVN VA HO CHI MINH PHAN 4

VI
50 NĂM PHI PHẠM SINH MẠNG, TÀN PHÁ ĐẤT NƯỚC
Phí Phạm Sinh Mạng
Phí Phạm Nguồn Nhân Lực
Phí Phạm Tài Nguyên Quốc Gia
Phí Phạm Tài Sản Quốc Gia
(The Hidden Killing Fields)

Từ xưa tới nay, tự cổ chí kim, chưa có một giới người nào phí phạm sinh mạng đồng bào mình, tiêu diệt các nguồn nhân lực, lãng phí các tài nguyên và tài sản quốc gia cho bằng những người lãnh đạo CSVN.
Theo nhận xét chung về những thành công của người CS, thì ta phải nói rằng họ rất thành công trong những sách lược tàn sát, giam cầm, tra tấn hàng triệu triệu người dân vô tội trên khắp bốn biển năm châu. Đồng thời họ ra sức triệt hạ các tôn giáo Đông, Tây, phá hoại các nền văn hóa nhân bản và đã dựng lên những thành trì hận thù, đào những hố chia rẽ giữa những người cùng trong một nước, một gia đình. Để thực hiện ý đồ độc tôn, độc quyền cai trị, người cộng sản còn tiến hành những chính sách vô nhân đạo, chà đạp nhân quyền và nhân phẩm.
Chủ trương trên đây, họ đã và hiện đang thi hành tại VN 50 năm qua và đang ra sức tiếp tục thi hành trong những giờ phút mà lẽ ra họ phải vì dân, vì nước mà chấm dứt từ nhiều năm trước. Họ đang ngồi giữa những núi xương, sông máu của hàng triệu người dân vô tội, những anh hùng liệt sĩ vị quốc vong thân, những người đã bỏ mình vì chính nghĩa và lý tưởng tự do dân chủ, và giữa những tiếng kêu than oan hận của hàng triệu đồng bào hiện đang thất nghiệp, thất học, thất chí, và sống cảnh bần hàn đói rách chưa từng có trên đất nước VN. Sau đây là bản liệt kê để giúp cho những người lãnh đạo CSVN nhớ lại những oan hồn, những tiếng kêu than rên xiết đó là ai và từ đâu tới:
* Trên 2,000,000 thường dân và binh sĩ chết vì chiêu bài "cứu quốc" của Việt Minh từ năm 1945 tới giữa năm 1954;
* 47,000 người Bắc Việt đã bị bắn chết trước các tòa án nhân dân hoặc bị tố khổ, bị cô lập để chết đói, và tự tử, gây đau khổ, khốn đốn cho hàng trăm nghìn người thân quyến của họ, trong việc thi hành Chương Trình Cải Cách Ruộng Đất trong thập niên 1950. Cuốn phim "Chúng Tôi Muốn sống" của Nhà Đạo diễn Vĩnh Noãn đã khiến CS VN phải chấm dứt cuộc tàn sát đồng bào miền Bắc:
Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho Đảng bền lâu cùng rập bước,
Thờ Mao Chủ Tịch chung lòng;
Thờ Sít Ta Linh bất diệt!
(Tố Hữu)
* 1,600,000 thường dân Miền Nam VN bị VC tàn sát trong thời kỳ chiến tranh từ 1962 đến đầu 1975;
* 10,000 hoặc hơn thường dân miền Nam bị Việt Cộng tàn sát trong vụ tấn công Mậu Thân, 1968;
* 20,000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa tử trận trong vụ tấn công Tết Mậu Thân;
* 100,000 binh si MTGPMN và CS Bắc Việt tử trận trong vụ tấn công Tết Mậu Thân;
* 300,000 binh sĩ của cả hai bên VNCH, VC và thường dân chết từ tháng giêng đến đầu tháng 5, 1975;
* 500,000 (hay hơn) thuyền nhân tử nạn trên biển Đông (bị bắn chìm, bị lật tàu, bị hải tặc giết, hoặc đói, bệnh) từ 1978 tới 1992. Với Phương Án số 2, CSVN đã tổ chức người vượt biên để thu vàng vào ngân quỹ. Mọi người vượt biên định giá từ 1 tới 3 lượng. Nhiều tàu đánh cá chở gấp 2, 3 lần khả năng, bị lật chìm, hoặc bị binh sĩ VC bắn ra từ trên bờ, nhất là ngoài khơi Rạch Giá và Vũng Tàu;
* 70,000 tới 80,000 tù nhân chính trị chết trong các trại giam của CSVN từ 1975;
* Hàng trăm tù nhân chính trị trốn trại bị bắn chết hay chết trong rừng;
* 100,000 hay hơn binh sĩ CSVN tử trận và bị giết tại Cao Miên; có những số binh sĩ CSVN tử trận mỗi ngày nhiều hơn là số binh sĩ CSVN chết mỗi ngày trong chiến tranh chống VNCH. Theo lời một quan sát viên CSVN thì những mộ chôn lính chí nguyện rãi rộng từ bến sỏi (Tây Ninh) đến Hồng Ngự, từ ngoại ô PnomPenh đến Xiêm Rệp và Battambang, ở Pai Lin, Xằm Lốt. Mỗi ngày từ 10 tới 30 binh sĩ CSVN chết về mìn. Hầu hết những chí nguyện quân miễn cưỡng này là thanh niên Miền Nam. Không một người nào là con cái các đảng viên Cộng Sản;
* 20,000 Việt kiều hay hơn nữa bị giết (cáp duồng) ở Cao Miên từ 1975 tới nay. Trong những tháng sắp tới lại sẽ có nhiều Việt Kiều ở Cao Miên bị giết trong chiến dịch Cáp Duồng;
* Hàng trăm ngàn người chết tại các vùng kinh tế mới, vì bệnh hay vì đói rét;
* Hàng chục nghìn người chết vì điện giựt, mìn , tàu chìm, thú rừng, bảo lụt vì đê điều không được bảo trì hoặc tăng cường;
* Và hiện nay hàng vạn người Việt đang bị khủng bố, sát hại, rượt đuổi và nhục mạ tại các nước Đông Âu, Đức, Cao Miên, Hồng Kông và các trại tỵ nạn Đông Nam Á
Những con số thống kê về số người vì chiến tranh độc quyền "cứu quốc" của CSVN mà bức tử có thể cao hơn nữa, nếu ta nhớ hết, và nhớ ngược trở lại từ 1930, khi CS Đông Dương bắt đầu cuộc giết hại dân lành với vụ Nghệ An Sô Viết, từ 1945.
Nếu không có chiến tranh độc quyền của CSVN thì đã không xãy ra những vụ tàn sát quy mô, những vụ phí phạm sinh mạng, nhân tài và vật lực như ta thấy ở trên.
* Hiện nay tại VN có hơn một triệu thương phế binh CS (chưa kể thương phế binh VNCH) sống cơ cực không được cứu trợ hoạc săn sóc y tế;
* Nhiều văn nghệ sĩ bị sa bẫy Nhân Văn Giải Phẩm hồi thập niên 1950 - 1960 và từ sau 1975 bị phê bình đàn áp, bóp nghẹt, theo lệnh Đảng;
* Chánh sách triệt hạ tôn giáo đã làm suy yếu, kiệt quệ tiềm lực của dân tộc;
* Chánh sách trả thù nham hiểm đã làm mai một hàng vạn nhân tài, chuyên viên, kỹ thuật gia, trí thức vô giá để kiến thiết quốc gia và tiến tới dân chủ. Còn những người có khả năng không bị tù đầy ngược đãi thì đã lần lượt vượt biên tìm tự do, hoặc đau ốm bệnh tật mà chết hoặc thành phế nhân;
* Một cựu đảng viên cộng sản đã vạch rõ ràng "tài sản đất nước bị phung phí. VN bị liệt vào hàng mấy nước nghèo nhất thế giớ trong khi đất nước có dồi dào tài nguyên thiên nhiên, nhiều tài nguyên nhân dụng và chất xám. "Chiến lợi phẩm bị phá tan, bị rơi vãi, bị chiếm đoạt bởi các ngành, các địa phương, vào túi cá nhân."
* Những người không tìm ra công ăn việc làm đã phải lên núi, vào rừng tìm vàng, tìm đá quí, hoặc tháo gở những gạch đá của những thành quách cổ, những pho tượng cổ, những di tích lịch sử để bán lấy tiền sống qua ngày.
* Các khu rừng, và những cây cối ven rừng núi đã bị các quản giáo CSVN bắt tù chính trị phải đi đốn về làm củi nấu ăn, cất trại, hoặc bán ra, đã gây nên nạn đất chuồi, đất lở, nước lũ, tràn xuống gây lụt lội, trôi nhà, sập đường. Voi và cá thú rừng khác ra tàn phá nhà cửa vườn ruộng và giết chết dân lành. Theo ước tính của chính giới chức CSVN thì những khu rừng bị tàn phá trong 17 năm qua lên tới 65% hoặc 75% diện tích rừng VN.
VII
MỘT LỜI KÊU GỌI KHẨN THIẾT
Qua những chương trước, ta đã thấy rõ ràng từ năm 1945 đến năm 1992, ngót nữa thế kỹ, CSVN đã gây không biết bao nhiêu là tai ương thảm cảnh, thảm kịch cho người dân VN, đã gây vô vàn tội ác, đã phí phạm hàng triệu sinh mạng nhân danh độc lập, tự do, hạnh phúc, nhân danh giải phóng, để rồi từ 17 năm qua, nhân dân có lẽ chỉ thấy độc lập nhưng mất tự do, mất hạnh phúc; chỉ thấy giải phóng kèm theo một chế độ độc tài đảng trị, kỳ thị và chia rẽ Bắc, Nam, giai cấp hơn bao giờ hết!
Tại một công viên Huế có một khẩu hiệu viết lại lời tuyên bố của Hồ Chí Minh "Không có gì quí hơn độc lập tự do" nhưng có người nào đó đã bí mật lấy sơn bôi đi tất cả các chữ khác, chỉ để lại 3 chữ "không có gì".
Đồng thời CSVN đã phí phạm tài nguyên nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, di sản quốc gia, gây phá sản cho nền kinh tế, cho cương thường đạo nghĩa, cho truyền thống dân tộc và suy đồi cho bốn nghìn năm văn hiến.
Ai ai cũng tự hỏi và hỏi nhau: Có phải những lãnh tụ cộng sản VN kia ngu chăng? Hay là họ run sợ, đã lỡ cỡi lưng cọp? Hay là họ cứ ù lì riết sẽ được việc? Hay là họ còn ham quyền ham lợi? Hay là họ quá tự ái kiểu quân tử Tàu? Không có một câu trả lời riêng rẽ nào mà ổn cả. Mà có thể tất cả những câu trả lời đó gộp lại mới may ra đúng.
Dù sao thì đối tượng trên hết là 70 triệu dân VN đang khao khát tự do, dân chủ, nhân quyền, đang đói rách và sống trong sự hổ thẹn, tủi nhục với thế giới văn minh dân chủ, tân tiến.
Kinh nghiệm 17 năm qua đã cho thấy rõ ràng là những con người tự do như chúng ta đây đã thực sự tỏ ra bất lực trước bạo quyền CSVN. Tình trạng này đã khiến cho các giới chân tu thấy rằng ngoài cố gắng thế tục, con người cần phải nhờ cậy quyền năng của các đấng thiêng liêng mới thành tựu được chính nghĩa tự do, công lý và nhân quyền.
Ba ngày hội họp cầu nguyện, theo lời Đức Ông Trần Văn Hoài là "dấu chứng của đức tin vào khả năng của tâm hồn có thể thay đổi được vận mệnh của nước nhà, có thể thực hiện được một nền hòa bình chân thật, (không phải nền hòa bình của nghĩa trang, của nhà tù, mà là) nền hòa bình trong đó người hòa với người và thuận ý trời, để toàn dân được hạnh phúc, phát huy được giá trị nhân phẩm của mình.".
Cuộc chiến tranh của CSVN dưới chiêu bài giải phóng đã gây chết chóc, tang tóc cho hàng triệu người để đi đến kết quả là cả một nền kinh tế sụp đổ, cả một dân tộc sụp đổ, cả một nền văn hóa đạo lý sụp đổ. Người CSVN nhân danh giải phóng, thống nhất nước nhà để giam cầm đầy đọa hàng trăm nghìn người gây đau thương tủi nhục cho hàng triệu gia đình.
Nước Việt Nam thống nhất của Hồ Chí Minh, sau 17 năm đã càng thêm nghèo đói, với sự gia tang ngày càng dữ dội nạn cờ bạc, đĩ điếm, tham nhũng, hối lộ. Nước Việt Nam ngày nay đã thành một hỏa ngục. Những người cộng sản cũ cũng phải kêu than lên rằng tại Việt Nam ngày nay "ngưiờ ta hối hả bon chen, hối hả kiếm chác. Người ta vội vàng chụp giựt nhà cửa, biệt thự, vị trí, cho con cái đi học, xuất khẩu lao động, đi Tây, mua bán hàng hiếm, hàng phân phối. Mọi cái có đi có lại, qua thư trao tay, qua thư móc ngoặc".
Trong khi đó, họ "tiếp tục giết hại nhân dân, hũy diệt văn hóa, triệt hại tôn giáo, tiêu diệt nhân tài, phá hoại quốc sản, bần cùng hóa cả một dân tộc".
Người cộng sản Việt Nam đang tìm đủ mọi cách để củng cố quyền hành, địa vị và quyền lợi của họ và tập đoàn thống trị bằng cách ve vãn chiều chuộng, mua chuộc đồng chí đàn anh Trung cộng và các nhà đầu tư, thương nhân ngoại quốc. Họ bán bừa bãi các tài sản quốc gia, đá quí, ngọc quí, cổ vật cho người ngoại quốc để phòng thân. Trên tay họ bưng dâng những cơ hội đầu tư vô giá cho nước ngoài trên những đĩa bạc, nhưng cả thân mình họ ngâm trong những giếng nước mắt của 70 triệu người dân đói khổ, đau xót tủi nhục. Nếu trước năm 1975, những bàn tay cộng sản trên thế giới đã vấy máu VN thì ngày mai đây những bàn tay của những nhà đầu tư và thương nhân ngoại quốc sẽ có thể vấy máu và nước mắt của hàng triệu ngườ Việt Nam đau khổ. Họ cũing có thể nhìn thấy những giọt nước mắt này trong những ly nước, trong những chán súp của họ tại các khách sạn, các nhà hàng, các phòng trà Việt Nam.
Dư luận người Việt trong mấy mươi năm qua đã thấy, và nay thì chính những người cộng sản đã giác ngộ cũng nhìn nhận rằng cộng sản Việt Nam là kẻ có tội với quốc dân.
- Chính họ đã từ bỏ con đường dân tộc để phục vụ quyền lợi nước ngoài;
- Chính họ đã làm cho VN trở thành một trong năm nước nghèo nhất thế giới, trong khi VN có đủ tài nguyên thiên nhiên và người Việt có thừa xảo năng. Cả nước phải ngữa tay xin ngoại viện.
- Chính họ đã giết 47,000 nông dân vô tội trong cuộc cải cách ruộng đất;
- Chính họ đã giết hại và gây chết chóc cho 5,000,000 người dân Việt từ năm 1945 tới nay;

Là những người con của nước Việt, chúng tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế và các nhà đầu tư hãy giúp nhân dân Việt Nam chấm dứt một chế độ vô nhân, một chế độ thiếu hẵn tình người, nếu quý vị không còn muốn chứng kiến những thảm cảnh xã hội, những thảm cảnh gia đình và suối lệ của người Việt Nam đau khổ, tủi nhục, đói rách và bị cướp mất nhân cách của họ nữa. Vì những sự kiện nêu trên, chúng tôi tha thiết kêu gọi tất cả các chính phủ trên thế giới và các nhà đầu tư quốc tế hãy tạm thời ngưng chỉ mọi hoạt động đầu tư, mọi hợp tác, mọi thương nghị với chính phủ CHXHCNVN cho đến giờ phút mà nhân quyền, tự do tín ngưỡng và công bằng được tôn trọng và bảo đảm bởi luật pháp và chính phủ; chúng tôi kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ hãy tiếp tục thi hành lệnh cấm vận và chỉ bãi bỏ lệnh cấm vận và bang giao với chính phủ cộng sản Việt Nam khi nao các nguyện vọng chính đáng của dân tộc Việt Nam, như trình bày ở trên, được thỏa mãn.
Một chính phủ Cộng Sản Việt Nam gây chết chóc cho 5 triệu sinh mạg trong chiến tranh, một chính phủ chịu trách nhiệm về cảnh nghèo đói cùng cực của một dân tộc dồi dào tài năng, xảo năng, một chính phủ tạo ra một nền kinh tế què quặt, một nền giáo dục phá sản, và một xã hội sụp đổ... không thể ngang nhiên tự tại và được sự hợp tác và giúp đở của các nước văn minh, dân chủ cho đến giờ phút chính phủ đó thực tâm, nghiêm chỉnh thay đổi hoàn toàn tận gốc, đi theo chiều hướng các xã hội tân tiến, thực hiện dân chủ đa nguyên, tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhân quyền và dân quyền.
Đó mới là hành động giúp dân tộc Việt Nam tiến tới một nền hòa bình lâu bền, một xã hội ổn định để quốc tế có thể đến đầu tư và giao thương lâu dài. Và chỉ có hành động đó mới mang lại kết quả mong muốn.
Trong cuộc gặp gở, trong thân tình tín hữu, chúng tôi cũng kính khẩn thiết khẩn cầu Đức Thánh Cha và các hàng Giáo Phẩm Tòa Thánh hãy cầu nguyện Ơn Trên và dùng ảnh hưởng và uy tín của mình để giải quyết nguyện vọng cho dân tộc Việt Nam, giúp dân tộc Việt Nam ra khỏi cái vực thẳm kinh tế, bàn tay đàn áp tôn giáo, những hành động vi phạm nhân quyền và chà đạp nhân phẩm, mà nhân dân Việt Nam là nạn nhân từ nhiều năm nay.
Kính xin Đức Thánh Cha nhận nơi đây lòng tri ân của chúng tôi.
TS. Dư Phước Long
Mùa Hè Năm 1995
San Jose, California

TOI AC CSVN VA HO CHI MINH PHAN 3

IV
NỀN GIÁO DỤC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA: GIÁO VlÊN BỎ NGHỀ, HỌC SINH ĐI BỤI
Trong xã hội truyền thống VN, giáo sư là người phải được kính trọng hơn cha mẹ Quân, Sư, Phụ; và con em học sinh là tươg lai đất nước. Tuy nhiên, giá trị văn hóa của bậc thầy và giá trị tương lai của tuổi trẻ VN dường như giờ đây đã bị các giá trị văn hoá CS và XHCN đạp đổ. Sự tuyển mộ giáo chức cũng như sự chọn lọc học sinh đều phải tuân theo những tiêu chuẩn chính trị cách mạng và ý thức mác-xít.
Chánh sách trên đã đưa tới hậu quả là trình độ học vấn văn hoá, nói chung, của các giáo sư, giáo viên đã xuống cấp rất thấp, và mức độ năng khiếu của khối học sinh càng xuống thấp hơn, ví sự gạn lọc theo tiêu chuẩn thành phần xã hội.
Trong hoàn cảnh đó, đi đôi với một nền kinh tế ngày càng tê liệt, sĩ số học sinh bỏ học tăng theo nhịp độ lên lớp. Còn giáo sư thì bơ nghề dài dài.
* Thầy giáo, cô giáo sống khốn đốn thiếu trước hụt sau, lương tháng chỉ đủ sống trong một tuần. Học sinh thối chí như thầy. Trường học cũng buồn theo. Đức tính hiếu học truyền thống dừng lại ở cổng trường. Tính chung, đã có trên 70 nghìn giáo viên bỏ dạy, đi làm nghề khác, mong khá hơn.
Cơn khủng hoảng giáo dục thấy rõ nhất trong giới trí thức vì đồng lương quá thấp, mỗi tháng chỉ đủ để mua 25 tô phở.
Thầy giáo lĩnh lương ba đồng;
Làm sao sống nổi mà không đi thồ.
Có thầy phải đạp xích lô;
Làm sao xây dựng tiền đồ (học sinh) Việt Nam?
Cô giáo phải bán bia ôm;
Ôm phải học trò ăn nói sao đây?
Có những giáo viên không làm những việc phụ nói trên, nhưng cũng xoay xở làm thêm những việc khác để đủ sống, như: bán bánh kẹo cho học sinh, bán vế số, bán thuốc điếu, giữ xe đạp, đi may mướn, bán cà phê, nước ngọt;
Theo nhận xét của người trong nước thì tinh trạng giáo chức đang tan ra từng mảnh. Mặc dù lương tháng chỉ bằng 25 tô phở, nhưng nhà nướcc cũng không trả đủ. Tại 19 tỉnh miền Nam, Nha Nước thiếu lương giáo chức tới 17 tỉ đồng;
* Trong khi các nước tân tiến dành 7 tới 10% tổng sản lượng quốc gia cho giáo dục thì VN chỉ dành 2.8% (1988). Giới quan sát còn nói thêm rằng nạn tham nhũng cũng đóng góp vào sự suy sụp của nền giáo dục.
Tuy nói là trường công lập, nhưng con em học sinh cũng vẫn phải đóng góp mỗi tháng vào cơ sở trường và lương giáo chức:
Học sinh các lớp 4, 5 và 6: đóng 1.5 kí gạo mỗi tháng
Học sinh Cấp Hai: đóng 2 ki gạo mỗi tháng
Học sinh Cấp Ba: đóng 3 ki gạo mỗi tháng
Học sinh mẫu giáo: đóng tiền
Nhiều học sinh phải bỏ học vì không có gạo để đóng.
* Trình độ lãnh đạo giáo dục khác hẵn trước năm 75. Một thí dụ:
Theo như mọi người biết thì Viện Trường Đại Học Cần Thơ, một đảng viên cs từ thập niên 40, chưa học hết chương trình tiểu học;
* Hơn 80% các hiệu trưởng các trường kỹ thuật cấp tỉnh đều là những người bộ đội giải ngũ, mà. tài năng duy nhất là. "sự cuồng tín";
* Những nhà lãnh đạo nầy điều khiển học đường bằng kỷ luật sắt;
* Thành phần giáo chức gồm đa số đảng viên tự coi là những nhà truyên giáo của đảng. Đa số xuất thân từ những gia đình công nhân hoặc nông dân được đào tạo cấp tốc trong những lớp học tối;
* Trong ngành giáo dục huấn nghiệp, ưu tiên được dành cho các nghề thực dụng, thiên về tay chân mà bỏ rơi ngành khoa học căn bản và những ngành khoa học lý thuyết;
* Tại Sài Gòn có lối 50 nghìn con em từ 6 tớ 14 tuổi chưa bao giờ tới trường (thất học).
* Nói chung, trên 20% trẻ em chưa biết đọc biết viết;
* Trên 30% trẻ em hầu hết ở nông thôn bỏ học ở cấp tiểu học. Khi chế độ khoán sản được thi hành ở nông thôn (80 - 82) học sinh tiểu học bỏ học để ra đồng làm việc. Khi buôn bán được cởi mở ở đô thị, học sinh đại học và trung học cũng bỏ trường rất nhiều (88 - 89). Hai hiện tượng này giải thích tại sao trong lúc dân số gia tăng thì số người đi học lại giảm;
* Số trường đào tạo công nhân kỹ thuật giảm từ 360 trường vào năm 1982 xuống còn 275 trong năm 1987. Số sinh viên từ 245 nghìn vào năm 1980 xuống còn 120 nghìn năm 1987. Lý do: Chương trình học không phù hợp với các cơ hội kinh tế; học vấn và kỹ năng chuyên môn học được không đáp ứng nhu cầu lợi tức và mức sống cá nhân;
* Tỷ lệ ghi tên và tỷ lệ bỏ học: 80 - 85% trẻ em từ 6 tới 10 tuổi ghi tên đi học (15% mù chữ). Trong số nầy, 40% bỏ học trước khi lên lớp 5.
* Số còn lại học hết tiểu học. Lên đến trung học thì 50% số nầy bỏ học trước khi lên Cấp Hai.
Đến đây, chúng ta thấy rõ tại sao báo chí CS báo động là hiện tượng mãi dâm và du đãng tại Sài Gòn gia tăng dữ dội... Băng đảng hoành hành ở bất cứ chổ nào trong thành phố... Hầu hết các tên cướp trẻ đều xuất thân từ những gia đình giàu có, khá giả, con cán bộ... Tại trung tâm Sài Gòn nạn trộm cướp diễn ra gần như công khai...
- Không phải chỉ bởi những trẻ em thất học, mà cũng còn bơỉ những thanh thiếu niên bỏ học, đi bụi, đi băng đảng.
Những tình trạng và hiện tượng nêu ra ở trên về nền giáo dục Xã Hội Chủ Nghĩa cho thấy rằng nền giáo dục VN đang tuột dốc một cách vô cùng nguy hiểm. Giáo sư, giáo viên giải nghệ, sinh vien học sinh bỏ học với mục đích chung là để tìm đường sống, dù sống bằng cách nào. Từ quyết định đó, họ đi vào một trong hai con đường: con đường làm ăn lương thiện, hoặc con đường kiếm tiền chớp nhoáng đâm đạp, chụp giựt đa số là phải chọn con đường nầy, tức là con đường băng hoại sụp đổ của xã hội VN, một con đường mà nhu cầu mưu sinh sống còn bắt buộc một số đông người phải đi.
Cả xã hội lẫn giáo dục đang sụp đổ. Nhiệm vụ khẩn thiết của người Việt còn tha thiết cứu nước cứu nòi là phải phục hồi ngay những giá trị tinh thần và những truyền thống văn hóa đạo nghĩa của xã hội VN, để lấy những giá trị và truyền thống nầy làm nồn móng cho công cuộc xây dựng lại gia đình, xã hội, dân trí và kinh tế của dân tộc. Đó là mục tiêu tiên yếu của nền giáo dục công dân VN trong thời hậu CS.
NHỮNG THẢM BẠI CỦA SÁCH LƯỢC ĐỐl NGOẠI VIỆT NAM CỘNG SẢN
Giống như những chế độ bắt đầu sụp đổ, chế độ CSVN đã từ mấy năm nay lâm vào điều có thể được gọi là khủng hoảng niềm tin (crisis of confidence). Trong cuộc khủng hoảng nầy cái phạm vi thân tín trong nội bộ thiểu số lãnh đạo chính quyền ngày càng thu hẹp lại. Nói một cách khác, những nhà lãnh đạo đó càng ngày càng thêm nghi ngờ càng nhiều người trong các cơ quan, các bộ, trong quân đội, v.v..
Trên đây là lý do khiến CSVN không dám phản ứng chống trả Trung Cộng khi họ chiếm các hòn đảo có mỏ dầu và khí đốt trên quần đảo Tây Sa và Trường Sa, và khi quân Trung Cộng tràn vào lãnh thổ dời mốc biên giới vào bên trong lãnh thổ VN. Vì CSVN không dám tin quân đội và hải quân của họ.
Bị cô thế sau khi các chế độ cộng sản Đông Âu sụp đổ, CSVN hoảng sợ, bám vào bất cứ vật gì họ vớ được để khỏi chết đuối. Họ đã bám vào đồng chí đại ca Trung Cộng. Ngày nay họ đang lâm vào cảnh gái ngồi phải cọc. Đã suy tôn; rồi chửi bới, mạt sát thậm tệ; bây giờ lại ca tụng suy tôn trở lại. Há miệng mắc quai, họ đành nín chịu, và bắt dân tộc VN phải chịu nhục mất nước, mất đảo.
Trước sự suy nhược ý chí và sự tê liệt quân sự quốc phòng của CSVN, bất cứ nưóc láng giềng nào cũng thấy dễ dàng đặt lại vấn đề biên giới, và giành đất, giành đảo. Theo chân Trung Cộng là Cao Miên. Mới đây, tất cả bốn phe liên hiệp tại nướcc nầy đều tán thành sáng kiến của Khmer Đỏ đồi đuổi người Việt định cư tại Cao Miên và trên Đảo Thọ Chu (gần Vịnh Thái Lan) về nước, và xác định lại biên giới Việt Miên, có nơi họ nói là đã lấn thêm vào lãnh thổ Cao Miên tới 50 cây số. Chưa chi CSVN đã đồng ý sẽ cứu xét. Với cái thế yếu hèn của chánh sách đối ngoại hiện nay của CSVN, chắc sẽ còn một vài nước láng giềng khác sẽ duồng gió bẻ măng, !ên tiếng đòi sự thay đổi hải phận hoặc biên giới. Nghe chừng như tổ chức Thượng Miên Trung và Miên Bắc đã bắt đầu lên tiếng đặt vấn đề tự trị với nhà cầm quyền CSVN.
Sau khi giành được chính quyền tại Miền Nam, và vì không có đủ hiểu biết về chính trị, ngoại giao, và trong cơn say chiến thắng, CSVN đã lên cường điệu đòi Hoa Kỳ bồi thường chiến tranh. Thái độ hống hách nầy đã được Hoa Kỳ trả lời thích đáng và đưa tới hậu quả là nền kinh tế tài chánh của CSVN giống như một cái xác không có xương sống. Nhân dân VN trong hơn 17 năm nay phải gánh chịu hậu quả nầy, chứ không phải giới lãnh đạo CSVN.
* Không những không trả món tiền mà CSVN gọi là "tiền bồi thường chiến tranh", mà trái lại, Hoa Kỳ còn thi hành lệnh cấm vận đối vơí CSVN, khiến cho nền kinh tế VN ngày càng khốn dốn vì không có ngoại tệ làm tiêu chuẩn đổi chác quốc tế: Đồng Mỹ Kim. Lý do khiến Hoa Kỳ phát động các cuộc chiến tranh kinh tế tài chánh ngay sau khi miền Nam thất thủ chính là chế độ Cộng Sản độc tài phản dân chủ, phản nhân quyền, đàn áp tôn giáo và nhân dân, chà đạp nhân phẩm. Bang giao và mậu dịch với CSVN có nghĩa là giúp củng cố và tăng cường rnột chế độ cộng sản nằm ngay bên cạnh một khổng lồ cộng sản đó là Trung Cộng; và xa hơn nữa là Bắc Hàn; bên nầy đất liền là Thái Cộng; còn bên kia biển Đông là Phi Cộng.
* Gần đây, Trung Cộng đã ngang nhiên coi quần đảo Trưòng Sa là lãnh thổ của mình và đơn phương ký hợp đồng thăm dò mỏ dầu hỏa và khí đốt tại Quầnn Đảo Tây Sa (mà sử sách VN gọi là Trường Sa) với Công Ty Crestone, Hoa Kỳ, hồi tháng 6, 1992. Trường Sa (Spratly Islands) và Hoàng Sa (Paracels Islands) là hai quần đảo thuộc chủ quyền VN. Hai quần đảo nầy đã được ghi chép trong lịch sử VN như là lãnh thổ chính thức của VN từ 1833, nhưng đã được phát hiện từ thế kỷ 15. Ngày 14 tháng 9, 1958, thủ tướng VNDCCH, Phạm Văn Đồng ký văn thư công nhận hai quần đảo nầy thuộc hải phận Trung Hoa. Hồi đó, chính phủ CSVN không phải là chính phủ của toàn lãnh thổ VN. Do đó, hành động của CS Bắc Việt không có giá trị pháp lý.
Vì món nợ võ khí, cố vấn, huấn luyện, xương máu lính Trung Cộng; vì quyết chiến thắng để thống trị nhân dân VN dưới chế độ CS độc tài chuyên chế để đưa nhân dân VN vào địa ngục trần gian ngày nay, nên CSVN, từ 1958, đã đem giao hai quần đảo đó cho Trung Cộng để trừ nợ.
* Hồi muà hè 1992, theo đài BBC, một số các nhà đầu tư Anh đã quyết định rút ra số vốn bỏ vào đầu tư tại VN là 7,5 tỷ Mỹ Kim. Lý do dĩ nhiên là VN không có hoà bình thật sự, tức là không có ổn định chính trị thực sự, một nền kinh tế khập khểng, tài chánh không có vàng và ngoại tệ bảo đảm, v.v.
* Sách lược đố ngoại CSVN đang nếm một mùi thất bại ngoại giao thê thảm khác. Giới quan sát chưa thấy CSVN có một hành động nào trước quyết định của Đại biểu LHQ dẫn độ, trả về VN những Việt Kiều nào bị ngưòi Miên và chính phủ Miên phát giác đem nạp cho LHQ.
Chiến dịch "cáp duồng" đã được phát động. Lãnh tụ Khmer Đỏ Khiêu Samphang nói rằng "Hà Nội đã mang vao lãnh thổ Khmer hơn hai triệu dân với ý đồ đồng hóa dân Khmer."
Hồi năm 1970, chính quyền Lon Nol đã ra lệnh tàn sát người Việt ở tại 4 tỉnh và vùng Biển Hồ. Xác người Việt bị giết trôi đầy trên sông Mekong. Hiện nay, Việt Kiều tại Cao Miên nói rằng họ rất sợ người Khmer thuộc các phe nhóm (bốn phe) sẽ tàn sát họ vì kỳ thị chủng tộc. Họ lên tiếng oán trách là "Hà Nội đã mang con bỏ chợ." Đây rõ ràng thêm một bằng chứng về sự bất lực và thảm bại của sách lược đối ngoại của CSVN. Riêng sự thất bại này sẽ đưa lại những "Killing fields" khác nữa trên lãnh thổ Khmer, mà nạn nhân lần này là hàng trăm nghìn đồng bào ta.
Giải pháp duy nhất để VN thoát khỏi cuộc khủng hoảng cực độ về kinh tế, tài chánh, kỹ thuật, ngoại giao, xã hội hiện nay là quyết định thiết lập bang giao giữa Hoa Kỳ và CSVN. Tuy nhiên, nan đề đối với Hoa Kỳ là nếu không bang giao thì nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục chìm sâu dưới vực thẳm kinh tế, đói rách khốn khổ. Nhưng nếu bang giao thì chế độ độc CSVN sẽ tồn tại, sẽ phát triển trở lại, và sẽ bắt đầu chi phối và lãnh đạo các đảng cộng sản ở Lào, Miên, Thái, Mã, Phi v.v... Đó là hậu họa dành cho Hoa Kỳ. Chỉ có một đường lối để đem dân tộc VN ra khỏi hoàn cảnh bi thảm, cái vòng luẩn quẩn hiện nay là dẹp bỏ chế độ CSVN, bằng cách này hay cách khác, và trong một kỳ hạn sớm nhất.

TOI AC CSVN VA HO CHI MINH PHAN 2

MỘT NỀN KINH TẾ PHẢN KINH TẾ
Khi xét tình trạng xã hội và kinh tế của nhân dân Việt Nam từ hơn 17 năm qua, ta thấy rằng số phận dân tộc ta quả là vô phước. Vì một nguyên nhân mà ai cũng hiểu, ngoại trừ nhữg lãnh tụ cộng sản giáo điều, ngoan cố, lạc hậu, không tưởng. Họ nhân danh một chủ thuyết ngoại lai không thích ứng với địa lý và văn hóa Việt Nam, đưa đến sự kềm kẹp con người và tiêu diệt mọi tiềm năng sáng tạo và phát huy năng khiếu mà Thượg Đế ban cho. Với xương máu của hàng triệu đồng bào đã đổ ra trong 50 năm qua, họ đã dựng lên một xã hội vô nhân quyền, phi nhân, vô đạo và một nền kinh tế giống như một bộ máy bất toàn thiếu sót nhiều bộ phận khiến cho bộ máy không tác động được. Sau đây là một số những yếu tố hoạc những bộ phận cho đến nay hãy còn thiếu sót:
* Việt Nam không có luật về bất động sản (Real estate law). Do do các ngân hàng ngoại quốc tài trợ địa ốc không hoạt động được. Đây là trở ngại chính cho các dự án xây cất;
* Lối làm ăn giao thương ở Việt Nam không có tiêu chuẩn và nguyên tắc, nên rất nguy hiểm cho các nhà đầu tư và thương nhân ngoại quốc;
* Không có những đạo luật và định chế pháp lý rõ rệt về bằng khoán và chứng khoán;
* Lề lối làm ăn tại Việt Nam từ thập niên 1970 là "tiền trao, cháo múc" và "thủ tục đầu tiên" (nói lái là: Tiền đâu). Lắm khi tiền mất tật còn!
* Mọi việc thương lượng với các cơ quan công quyền đều đi cửa sau;
Thêm vào đó:
* Phép vua thua lệ làng, tức là quyền quyết định tối hậu thuộc các chức sắc xã, quận, và cán bộ; lệnh trung ương không có hiệu lực.
* Không có sách lược nhà nước giúp việc nghiên cứu thị trường trên quy mô toàn quốc, nên chỉ có được những hệ thống phân phối từng vùng nhỏ, và từng địa phương; và do đó, không có hệ thống đại diện hoặc đại lý hữu hiệu;
* Không có tiện nghi bảo trì sửa chữa máy móc "after sale services";
* Các nguồn cung cấp sản phẩm, hàng hóa không đều đặn, không đúng hẹn, không đúng tiêu chuẩn phẩm chất số lượng, và các điều kiện thỏa thuận khác trong hợp đồng;
* Hệ thống đường sá và xe lửa hư hỏng, không bảo trì nên quá tồi tệ;
* Không có hệ thống phân phối nhu yếu phẩm toàn quốc;
* Truyền thông báo chí bị Đảng kiểm soát chặt chẽ;
* Các nhà đầu tư ngoại quốc không được cho xem các kế hoạch hiện đại hoá quốc gia, nếu có;
* Cộng Sản Việt Nam không dứt khoát dẹp bỏ nhũng tư tưởng và quan niệm kinh tế Mác xít;
* Không có một nền tảng pháp lý hạ tầng cơ sở cho cuộc sinh hoạt và điều hợp kinh tế và xã hội;
* Cộng Sản Việt Nam không chấm dứt chế độ cai trị bằng luật pháp để thay thế cho đảng lệnh;
* Cộng Sản Việt Nam không thiết lập một hệ thống pháp lý triệt để tôn trọng tư hữu tài sản;
* Không có một cuộc tái cấu trúc hệ thống giá cả và lực lượng công nhân;
* Không tích cực thể hiện và phát huy hệ thống kinh tế thị trường.
* Cộng Sản Việt Nam hiện đang bối rối điên đầu trước bài toán nhân dụng vì bất lực trong việc tạo công ăn việc làm cho hàng triệu tay thợ. Tổng số lực lượng lao động Việt Nam là gần 30 triệu. Thị trường nhân dụng mỗi năm phải tiếp 1.5 triệu công nhân. Ngoài ra, còn có một số người sau đây mà Cộng sản Việt Nam phải tạo công ăn việc làm, nhà ở cho họ:
- Hàng vạn binh sĩ giải ngũ từ Cao Miên về,
- Trên một triệu di dân sẹ bị đuổi từ Cao Miên về,
- Hàng vạn thuyền nhân từ các trại tỵ nạn Đông Nam Á bị cưỡng bách hồi hương,
- Năm trăm nghìn người Việt g6c Hoa bị Trung Cộng trả về,
- Hàng vạn công nhân bị các nước cộng sản cũ ở Đông Âu đuổi về,
- Hàng trăm nghìn binh sĩ thuộc quân lực Cộng Sản (1.6 triệu quân) bị giải ngũ.
- Mặt khác, hàng năm có hàng vạn sinh viên tốt nghiệp, thành tài ở các trường đại học tổng hợp, công nghiệp, trung học. Hầu hết không tìm được việc làm, hoặc việc làm không hợp với chuyên môn học ở trường, hoặc vì khả năng dưới trình độ tối thiểu.
Tất cả những nhân lực nói trên phải làm bất cứ việc gì để khỏi đói, kể cả đi buôn lậu, lên rừng tìm vàng, hoặc hoạt động trong lĩnh vực kinh tế không chính thức với những nghề linh tinh nhằm sống qua ngày không nhất thiết bất hợp pháp. Đó là khu vực vô dạng của những nguời làm kinh tế cá thể. Còn những người hoàn toàn ở vào th1ê vô kế khả thi thì suốt ngày la cà các quán cà phê hoặc lang thang trên các vỉa hè phố. Bao nhiêu kiến thức học hỏi ở trường đều trả lại cho thầy.
Với một nền kinh tế kiệt quệ, với lệnh cấm vận củ Hoa Kỳ, với nền quản lý bất lực, với tinh thần chống đối đề kháng thụ động của nhân dân, Cộng Sản Việt Nam làm sao giải quyết nổi nan đề kinh tế và nhân dụng hiện nay đang đè nặng trên họ trên đất nước và nhân dân?
* Đậu phộng, mía, dầu ăn, đường không tìm được người tiêu thụ vì lẽ gía xuất khẩu cao, còn gạo thì chỉ xuất khẩu được 7 trăm nghìn tấn; tất cả vì gía không cạnh tranh được với nông sản cuả các nước láng giềng. Nông gia bị sản phẩm ứ đọng đầy kho.
* Biên giới Việt Hoa mở rộng cửa để vui lòng đại ca Trung Cộng, nên hàng lậu thuế nhân cơ hội tràn ngập khắp các nơi, với giá rẻ hơn hàng sản xuất trong nước và hàng nhập cảng khác. Một lý do khác là nền quản lý kinh tế kỹ nghệ bất lực. Chất lượng và năng suất lao động Việt Nam không đương đầu nổi với hàng Trung Cộng. Chưa bao giờ trên thị trường Việt Nam lại có nhiều hàng Trung Cộng như hiện nay (70%). Trước đây ba năm, hàng Thái chiếm đến khoảng 70% trên thị trường, hàng Trung Cộng hầu như không có. Nay hàng Thái chỉ còn chừng 30%. Đây là lần khốn đốn thứ hai của hàng nội địa, sau khi bi khốn đốn trước nạn hàng Thái tràn ngập thị trường Việt Nam vào năm 1989.
* Một số lý do căn bản khác cho sự thất bại của hàng nội hoá là không có chính sách toàn diện về sản xuất nội hóa, gồm có: Luật thương mãi, luật đầu tư trong nước, hệ thống thuế khoá, tín dụng, tiền tệ, ngoại hối, ngân hàng, hạ từng cơ sở khả dụng như đường sá, cầu cống, điện, nước, v. v..
* Hệ thống tín dụng ngoại quốc tại Việt Nam thất bại trước tình hình kinh tế kiệt quệ và lối điều hành kinh tế theo luật rừng tại Việt Nam. Mới đây, một số công ty ngoại quốc phải đóng cửa hoặc ngưng hoặt động, trong đó có: Quỹ đầu Tư Tín Dụng Lyon Pháp Quốc, Công ty Indochina Hotels, và Lloyds Bank of Fund Management and Asia Securities.
Trước đây mấy tháng, các nhà đầu tư Anh đã rút về 7.5 tỷ Mỹ Kim, không đầu tư tại VN nữa, vì những lý do nêu trên.
III
MỘT XÃ HỘI BĂNG HOẠI ĐANG SỤP ĐỔ

Phác hoạ bức tranh xã hội Việt Nam là công việc dễ dàng của những người sống tại chỗ, hàng ngày chứng kiến và quan sát những màn hỉ nội ái ố chung quanh mình. Với chúng tôi, khi muốn mô tả sinh hoạt xã hội hàng ngày ở quê nhà, tất nhiên phải căn cứ vào những nhân chứng, những tài liệu sách báo Việt Nam và những đồng bào sang định cư tại Mỹ trong những năm, tháng qua. Những bức tranh xã hội dưới đây xuất xứ từ nguồn cung cấp đó:
* Theo nhận xét của những người đã từng ở trong nước, trong đó có những nguời trước đây là những thành phần cao cấp của chế độ cộng hòa xã hội chủ nghĩa, thì tham nhũng, đặc quyền đặc lợi gắn liền với chế độ độc quyền lãnh đạo cuả Đảng Cộng Sản Việt Nam, đưa tới hiện trạng thất nghiệp lan tràn, phụ nữ bán dâm, trẻ con thất học, bỏ học, đi bụi đời, băng đảng, những người có ăn học có khả năng không đượcc tin dùng ngày càng đói rách;
* Tham nhũng tại Việt Nam là biểu tượng của một nước có nền văn hoá thấp. Các nhu cầu văn hoá đã thay đổi... Nền văn hoá hiện đang xuống cấp không kìm lại được... Có những nhu cầu văn hoá hết sức vô văn hoá, nên đã lũng đoạn nền văn hoá. Chính điều này đã tạo ra càng ngày càng nhiều tệ nạn xã hội. Số người thất nghiệp và khiếm dụng quá cao đưa tới tình trạng băng hoại đạo lý;
* Những liên hệ gia đình, xã hội ngày càng thêm lỏng lẻo. Phụ huynh không còn khả năng nuôi hoặc dạy con cái; có khi phải nhắm mắt để chúng đi kiếm tiền về nuôi cha mẹ;
* Tham nhũng dưới chế độ cai trị độc quyền của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa ngày càng khoa học và tinh vi, được phát huy theo ba hệ thống: Tham nhũng có hình tháp, từ cấp trung ưong xuống; tham nhũng theo mặt bằng, giữa các đồng nghiệp và qua những móc ngoặc; và tham nhũng lẻ giữa cá nhân; tùy trường hợp mà áp dụng đúng mức.
Theo lời một người tự xưng là "nhà giáo nhân dân" thì "tình trạng tham nhũng ở Việt Nam ngày nay lan tràn, lại có nhiều băng phiệt (bandocrats) từ cấp trung ương đến tỉnh, hoặc từ tỉnh đến xá, ở ngành nầy hay ngành nọ. Lực lượng nó hùng hậu, lại có phép thần thông biến hoá. Đến đỗi cho tới nay Quốc Hội cũng phải chịu chào thua!". Môt cựu đảng viên cộng sản than thở: "Khi lòng tham đã lan tràn từ trên xuống dưới, đạo lý không còn, mà thiếu hẳn pháp lý để kềm chế dục vọng thì xã hội mặc sức băng hoại." .
* Đi đôi với nạn tham nhũng 1à nạn trộm cắp tái sản nhà nước. Ví dụ, trong ba tháng đầu năm 1992, có 1,092 vụ đổ bể. Thất thoát của dân mất 17 tỷ đồng. Theo những người biết rõ nội vụ thi thì phạm là những cán bộ cao cấp.
Nếu không trộm cắp của công thì lạm dụng chức vụ. Một "vali" (tín hàm) ngoại
giao bị khui ra tại một phi trường Đông Âu bên trong chứa 800 quần jean và 2,000
đồng hồ điện tử, là của một... đảng ủy viên.
* Gầm đây, một người Việt đã nhận hàng của gia đình gửi biếu gồm 1,200 máy cày và 65 Ti Vi màu;
* Và cũng gần đây, hàng chục tàu của một số đơn vị vận tải đường biển thuộc các tổ chức kinh tế nhà nuớc đã tham gia chở hàng lậu với quy mô lớn, một số đã bị tầu Trung Cộng chận bắt, cướp hết hàng hóa;
* Trên con đường buôn lậu từ Cao Miên, trong sáu tháng đầu năm nay có những món hàng sau đây được chuyển qua các tỉnh biên giới: 4,000 xe hơi, 1,700 đầu máy video, 60,400 xe gắng máy, 10,300 ti vi màu, 29,000 radio - cassettes;
* Đó là những bức tranh chìm. Còn về bức tranh nổi là những cảnh tượng não lòng thương tâm trên các hè phố. Đây là những cảnh màu trời chiếu đất của những cặp vợ chồng, những thanh thiếu niên trong hoàn cảnh sống vô gia cư homeless;
Khách qua đường thấy hè phố Hà Nội, hè phố Sài Gòn không còn là hè phố nữa, mà là nơi ăn uống, nơi bán hàng, nơi giặt dũ, nơi đánh bạc, nơi phóng uế, và cũng là nơi ngủ nghỉ, bán dâm nữa.
* Theo tin tức báo chí cộng sản ở Sài Gòn mới đây thì "hiện tượng mãi dâm và du đãng tại Sài Gòn đang gia tăng dữ dội. Gần như nơi nào trời bắt đầu tối là có bóng gái ăn sương thấp thoáng. Các băng đảng hoành hành ở bất cứ chỗ nào trong thành phố... Hầu hết các tên cướp trẻ đều xuất thân từ những gia đình giàu cá, khá giả, con cán bộ.
* Tại trung tâm Sài Gòn, nạn trộm cướp diễn ra gần như công khai. Nạn nhân thường là người ngoại quốc và Việt Kiều về thăm nhà. Thủ phạm là dân bụi.
* Một nỗi đau lòng khác là một số vợ sĩ quan, viên chức bị "đi cải tạo", sau khi đã xài hết tiền, bán hết của, đã phải bán mình cho khách làng chơi, mà hầu hết là những cán bộ Miền Bắc vào, để lấy tiền nuôi gia đình.
Nguyên nhân duy nhất của nạn băng đảng, trộm cướp: Bị bế tắc trong lối sống, không có lý tưởng, sống thác loạn, dâm đãng, bao lực... Họ sống theo những hình ảnh thườmg thấy trong các phim giang hồ, xã hội đen của Hồng Kông giống như thanh thiếu niên đi bụi ở Mỹ, Canada;.
* Vì một số đông gia đình sống nhờ kinh tế đen, kinh tế vô dạng còn kinh tế tạo công ăn việc làm thì chỉ thoả mãn được một phần nhỏ của thị trường nhân dụng, nên chi trong số đông đảo người thất nghiệp cá một số phụ nữ trẻ tuổi phải bất đắc dĩ hành nghề mãi dâm để nuôi sống bản thân và nuôi gia đình.
Vớ số du khách, thương nhân ngoại quốc, Việt kiều về thăm nhà càng đông, số phụ nữ buôn hương bán phấn cũng do đó tăng theo. Ngoài nhũng thanh lâu ra, tất cả các vũ trường, các khách sạn, từ cỡ lớn tới cỡ mini, phòng trọ, các quán cà phê đều có gái mại dâm, với tiết mục mệnh danh là "lúc 0 giờ".
* Tại Sài Gòn, Hà Nội và các đô thị, mãi dâm và ciné, video khiêu dâm đã trỡ thành những kỹ nghệ phát triển có hệ thống đạt tới qui mô toàn quốc.
* Các "chiến sĩ an ninh" trên đường phố nghèo đói qua đành làm liều: Có khi chận bắt xe gắn máy lại mượn cớ hỏi giấy tờ, nhưng kỳ thực chỉ để kiếm mấy điếu thuốc thơm, hoặc vài nghìn đồng về cho vợ mua gạo. Theo những cựu đảng viên cộng sản thì những giới người nói trên không thể sinh sống một cách bình thường lành mạnh "vì cơ chế quan liêu, bảo thủ, vô trách nhiệm, tình trạng bất công xã hội lan tràn khắp nơi". Do đó, có những câu ca dao thời đại sau đây:
Đầu đường, thiếu tá bơm xe;
Cuối đường, trung tá bán chè đậu đen;
Giữa đường, đại tá rao kem...
* Có những phụ nữ lao động, phụ nữ trí thức phải lén lút bán mình để sống qua ngày trong tủi nhục;
* Có hàng vạn thanh thiếu niên chán đời, lâm vào ngõ cụt, thất nghiệp, thành tích bất hảo đã mượn xì ke ma túy, trò "chơi mê, xì cọt", ngoài cocaine và heroin để "quên". Những thanh niên băng đảng đầu trọc dùi lỗ "xí ngầu" trên tay bằng thuốc lá cháy đỏ, rồi phá cho những chỗ châm loét to thành những lỗ lớn. Họ gọi đó là "trò chơi hành xác". Có những thanh niên khoét tới 36 lỗ lớn bằng đồng xu trên cánh tay mình;
* Trẻ em gầy ốm nhỏ bé hơn trẻ ern ngày xua. Tỷ lệ chết sơ sinh lên tới 6%. Những đứa còn sống thì bị còi xương vi thiếu ăn, chứ chưa nói tới chất dinh dưỡng. Các bà mẹ sau khi sanh con không có sữa cho con bú.
* Có tới 40% cư dân trong những vùng thôn quê có nguy cơ bị bệnh sốt rét mỗi năm.

TOI AC CSVN VA HO CHI MINH PHAN 1

BẢN CÁO TRẠNG 50 NĂM TỘI ÁC CỘNG SẢN
50 Năm Tội Ác
50 Năm Diệt Chủng
50 Năm Phí Phạm Sinh Mạng
50 Năm Phí Phạm Tài Nguyên Nhân Lực
50 Năm Phí Phạm Tài Nguyên Quốc Gia
50 Năm Tàn Phá Di Sản Quốc Gia
50 Năm Tàn Phá Đạo Lý, Truyền Thống Dân Tộc
50 Năm Tàn Phá Xã Hội Việt Nam
Yêu cầu các nhà lãnh đạo hãy xử dụng nhân quyền
và quyền trả lời để tự bạch hoá cho mình.
Dư Phước Long, Ph.D.

Người tín hữu Việt Nam hãy tích cực và can đảm dấn thân
hành động chung với mọi thành phần của cộng đồng người Việt Nam
để xây dựng một Nền Hòa Bình và Công Lý xứng hợp với
nhân phẩm con người trên quê hương mình.
ĐGH Gioan Phaolô II
50 Years of Vietnamese Communist Crimes (html)
50 Years of Vietnamese Communist Crimes (Word)
50 Năm Tội Ác Cộng Sản (html)
50 Năm Tội Ác Cộng Sản (Vietnet)
50 Năm Tội Ác Cộng Sản (Unicode)


MỤC LỤC
Dẫn nhập
I. 1- Cuộc Đấu Tranh cho Hòa Bình Công Lý
2- Cuộc Đấu Tranh của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
3- Cuộc Đấu Tranh của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
II. Một Nền Kinh Tế Phản Kinh Tế
III. Một Xã Hội Băng Hoại Đang Xụp Đổ
IV. Nền Giáo Dục Xã Hội Chủ Nghĩa
V. Những Thảm Bại Của Sách Lược Đối Ngoại của Cộng Sản Việt Nam
VI. Năm Mươi Năm Phí Phạm Sinh Mạng, Tàn Phá Đất Nước
VII. Một Lời Kêu Gọi Khẩn Thiết

DẪN NHẬP

Muốn kể hết những tội ác của CSVN từ thập niên 1930 tới nay, cần phải hàng vạn trang giấy, chứ không phải chỉ với vỏn vẹn năm mười trang. Tuy nhiên, trong đời sống hàng ngày, với thì giờ hạn hẹp của chúng ta, công việc đó xin dành cho các sử gia với thì giờ rộng rãi của họ.
Chắc chắn nhiều sử gia Việt Nam hay ngoại quốc sẽ làm công việc này trong một tương lai không xa. Nếu thì giờ cho phép, hoặc vì nhu cầu cần phải làm công việc này sớm sủa, thì tác giả cũng xin đóng góp.
Trong hoàn cảnh sinh hoạt hiện nay mà thì giờ được đo bằng tiền bạc, chúng tôi xin phép chỉ giới hạn bài tham luận nầy trong phạm vi những sự kiện đang diễn ra trước mắt mọi người, trong và ngoài nước từ 1975 tới nay, với sự chú trọng đặc biệt vào các cuộc Tranh Đấu cho Hòa Bình Công Lý và nhân quyền, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng và các dân quyền, trong một chế độ cai trị tự mệnh danh là độc lập và tự do; trong khi đó chế độ cai trị lại là chế độ cộng sản độc tài đảng trị.
Nhờ sự thông đồng với nước ngoài, CSVN đã thực hiện được quyền thống trị toàn lãnh thổ VN, và đã lùa 70 triệu dân vào một đường hầm đen tối, kinh hoàng, khủng khiếp nhất từ cổ chí kim.
Thay vì đem lại "cơm áo" và "hạnh phu'c" cho toàn dân như họ đã từng dùng làm khẩn hiệurêu rao tranh đấu mị dân, các lãnh tụ CSVN đã chủ trương ngang nhiên chà đạp nhân quyền và dân quyền, giam cầm, áp bức, khủng bố các tu sĩ, văn nghệ sĩ, trí thức và bất cứ những ai chủ trương dân chủ đa nguyên, đa đảng, kể cả những người tự coi là "lương thiện" và thức thời thuộc chế độ.
Trong khi chế độ lừa dối phỉnh gạt dư luận trong và ngoài nước bằng những thủ đoạn và những chiêu bài chính trị ngoạn mục và hấp dẫn, CSVN vẫn tiến hành những cuộc bắt bớ giam cầm khủng bố các tôn giáo tại Nam Việt Nam trong 17 năm qua, mà nỗi bật nhất là Thiên Chuá Cơ Đốc Giáo và Phật Giáo, song song với những cuộc bắt bớ giam cầm tù đầy các văn nghệ sĩ và những người dóng lên "tiếng nói dân tộc".
Trong khi đó thì xã hội Việt Nam ngày càng dài dài xuống dốc thê thảm, bi đát trong tất cả mọi lãnh vực, từ kinh tế đến xã hội, từ văn hóa đến giáo dục, từ nội trị đến ngoại giao, quốc phòng. Nạn tham nhũng, bóc lột, độc tài địa phương, cường hào ác bá, trộm cắp của công, của tư, lan tràn tạo nên một chướng khí trong hơi thở biến cho Việt Nam thành một xã hội băng hoại và bệnh hoạn trong một quốc gia què quặt trong lĩnh vực quốc phòng và đối ngoại. Trong hai lĩnh vực này, chính quyền CSVN đã và đang lâm vào cái thế vừa vô cùng lúng túng vừa nhục nhã chỉ thấy ở các nước bại trận.
Xét cho cùng, CSVN đã bắt dân tộc Việt Nam phải gánh chịu cái nhục mất đất trên biên giới và mất đảo ởn ngoài khơi vì sự hoàn toàn bất lực và hoàn toàn thất bại của họ trong nhiệm vụ chống ngoại xâm trên mặt trận chính trị quân sự.
I
1.- ĐẤU TRANH CHO HÒA BÌNH, CÔNG LÝ VÀ NHÂN QUYỀN.
Hòa bình, công lý và nhân quyền là ba điều kiện tất yếu cho sự sinh tồn của mỗi con người, mỗi đạo giáo và mỗi dân tộc. Không một chế độ cai trị nào tồn tại lâu dài nếu thiếu một trong ba điều kiện tất yếu này.
Với ý thức đó, chúng tôi xin dâng lên Đức Thánh Cha và các hàng Giáo Phẩm Giáo Hội, đặc biệt là Giáo Phẩm Việt Nam tại Tòa Thánh, lời cảm tạ chân thành của chúng tôi, vì Giáo Hội đã cùng với các tôn giáo Việt Nam khác triệu tập ba ngày hội để, theo lời Đức Ông Trần Văn Hoài, "cầu nguyện hòa bình cho VN và phát huy ý chí chung và thỏa mãn khát vọng hòa bình, công lý chân thật nhanh chóng được thể hiện trên quê hương, hầu cho những nổi khổ đau của toàn thể đồng bào chúng ta sớm chấm dứt."
Cuộc họp mặt dự tính trên nói lên một cách hùng hồn thực trạng là từ 17 năm qua tại Việt Nam ta không có công lý; nhân quyền lại càng không có, mà chỉ có một nền hòa bình nằm trên họng súng. Những biện pháp khủng bố tinh thần, tâm lý trong 17 năm nay vẫn tiếp tục đè nặng trên dân chúng, trên các tôn giáo, trên các văn nghệ sĩ, trí thức tự do. Công an vẫn tiếp tục canh chừng, rình rập, theo dõi mọi người dân và khách ngoại quốc, khi gần khi xa, tùy lúc. Trong khi đảng CSVN tuyên bố cho người dân được phép chỉ trích thì những người ngay thật đứng lên đói hỏi dân chủ đa nguyên liền bị bỏ tù.
Sau đây là một số những trường hợp vi phạm nhân quyền và dân quyền của chánh quyền cộng sản mệnh danh là Xã Hội Chủ Nghĩa:
* Những nhà tù công khai hay bí mật hãy còn giam giữ nhiều tu sĩ các tôn giáo, một số nhân viên thuộc chế độ Cộng Hòa, và nhữ người tranh đấu ôn hòa cho tự do tín ngưỡng và lý tưởng dân chủ.
Trong số những chính trị phạm hiện đang bị cầm tù hay bị quản thúc có Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế (một thành viên của tổ chức Ân Xá Quốc Tế), BS. Nguyễn Lạng, LS Đoàn Thanh Liêm, các ông Hồ Thái Bạch (nhân sĩ Cao Đài), Nguyễn Van Hạnh, các LM Lê Văn Vàng, Trần Đình Thụ, GS. Đoàn Việt Hoạt, cựu Trung úy Phi Công Lý Tống, Nhà Văn Phan văn Thức, các Đại Đức Thích Trí Siêu và Thích Tuệ Sỹ, Nhà Văn Doãn Quốc Sĩ; Nhiều đảng viên Quốc Dân Đảng và Đại Việt; nhiều người bị gọi là "tù cải tạo" và ngay cả Nguyễn Hộ, chủ tịch Câu Lạc Bộ Kháng Chiến của những người CS miền Nam.
* Theo một cựu đảng viên cao cấp CSVN thì ngoài những người bị oan trái "có tên tuổi"; còn hàng vạn trường hợp người dân thấp cổ bé họng bị bắt oan, bị bỏ tù oan, bị nhục hình, bị ép cung... thì, cũng theo lời cựu đảng viên này, "không sao kể xiết."
* Có những xã có trên 200 hương chức mỗi xã lộng hành sâu dân, mọt nước, cơ hội;
* Có hàng nghìn oan ức chồng chất ở nông thôn trước sự hà hiếp của cán bộ, công an xã, phường đè nặng trên cuộc sống của dân quê;
* Hàng nghìn vụ kiện về nhà cửa, vườn, ruộng, đất, bị một số cán bộ đảng viên có chức quyền ở địa phương cưỡng đoạt của dân;
* Hàng vạn đơn kêu gọi công lý chất đống từ năm nầy sang năm khác mà không ai giải quyết đã gây nên oán thù, ghê tởm và tuyệt vọng cho vô vàn người dân không được ai bênh vực.
* Trong lĩnh vực giáo dục, những cuộc tuyển chọn học sinh, sinh viên phải chiếu theo tiêu chuẩn gia đình để gạt bỏ những con em mà cha mẹ không phải là đảng viên. Đồng thời, những học sinh được tuyển chọn phải liên hệ đến ba hay bốn thế hệ trước, cha mẹ có công hay không trong cuộc chiến tranh của cộng sản.
* CSVN đã viện cớ "công lớn" để hành động vi phạm nhân quyền và dân quyền, "thu góp tài sản, và quyền lợi của dân vào tay phe cánh họ, và che lấp biết bao tội ác tầy trời liên quan đến hàng chục triệu gia đình lương thiện". Nói về những vi phạm nhân quyền của cộng sản, một cựu đảng viên cộng sản đã nhìn nhận: Đây là tấn bi kịch mang tầm vóc thời đại kéo dài hơn nữa thế kỹ."
* Những người cộng sản còn có ít nhiều nhân cách và tự trọng đều nhận thấy rằng sự lừa dối và bất công và chế độ quan liêu hà khắc vi phạm nhân quyền của CSVN trong gần 50 năm qua đã đem lại vô số bất hạnh cho nhân dân. Tất cả những phần tử cộng sản này đều tin rằng chế độ không có bộ mặt con người của CSVN "Ắt sẽ bị sự trừng phạt nghiêm khắc nhất của quần chúng.".
* Theo những nhà phê bình xã hội thì CSVN áp dụng một chế độ phản nhân quyền, trong đó họ không tôn trọng cá tính của con người, không tôn trọng quyền lợi chính đáng của nhân dân, coi thường nhân phẩm, "hạ thấp con người xuống, con số không hèn hạ để tồn tại và phát triển trên sự gian dối, và thi hành đạo đức giả (hypocrisy) .
Trên mặt trận tranh đấu nhân quyền, Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế trước đây, trong năm 1992, có cho hay CSVN vẫn tiếp tục vi phạm nhân quyền bằng hành động bắt giam, hoặc xét xử không đúng tinh thần công pháp quốc tế những người VN đã lên tiếng chống đối Nhà Nước CS, theo đường lối bất bạo động. Trong số những nạn nhân đó có những người sau đây: .
* Luật sư Nguyễn Khắc Chính, bị giam từ 1975 tới nay mà không hề đem ra xét xử;
* Luật sư Nguyễn Sĩ Bình, từ Hoa Kỳ về, và 16 người khác bị bắt vào tháng tư 1992;
* Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, được AXQT công nhận là tù nhân của lương tâm từ năm 1983. Ông bị bắt giam lại vào tháng 1, 1990.
Ngoài ra, AXQT còn lên tiếng phản đối về những xét xử bất công, như trườg hợp đối với L.S Đoàn Thanh Liêm, ông Nguyễn Ngọc Đạt, và Trịnh văn Thương.
* Ngày 10-9-92, Đại diện của 328 đoàn thể, các cơ quan truyền thông VN và nhiều nhân vật nổi tiếng của Hoa Kỳ và các nước trên thế giới đã tập hợp trước trụ sở Liên Hiệp Quốc, Nữu Ước, phát động phong trào đòi trả tự do cho những tù nhân chính trị hay còn bị CSVN giam cầm vì họ đã vận động nhân quyền cho nhân dân VN. Trong dịp này 24 người đã tự nguyện tuyệt thực trong 48 tiếng đồng hồ. Phát ngôn nhân của buổi nết-tinh đã trưng ra danh sách của 275 tù nhân chính trị đượcc biết chắc còn bị CSVN giam giử tại những trại tù "cải tạo".
Ban tổ chức đã gặp đại diện Văn Phòng LHQ để trao bản danh sách, Khiếu Nại của H.T. Thích Huyền Quang và Văn Thư của Đảng Nhân Dân Hành Động. Cuộc vận động này do Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng VN đứng ra điều hợp.
2.- CUỘC ĐẤU TRANH CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM CHO TỰ DO TÍN NGƯỠNG VÀ CÔNG LÝ
* Kể từ năm 1945, CSVN đã cưỡng bách giáo dân và giáo sĩ Công Giáo Việt Nam tham gia các tổ chức đảng và chính quyền cộng sản;
* Sau năm 1975, nhóm Công Giáo thiên tả đã có những hành động nhằm bắt buộc giáo dân phải dựng lên một Ũy Ban Công Giáo Yêu Nước để gia nhập Mặt Trận Tổ Quốc. Ũy Ban đó được lập theo mô thức Ũy Ban Liên Lạc Công Giáo do cộng sản Việt Nam đẻ ra tại miền Bắc. Vì sáng kiến không được các giáo phận Miền Nam tán đồng nên các tu sĩ và giáo dân thiên tả đã quay sang thành lập Ũy Ban Vận Động Công Giáo.
* Vào cuối năm 1983, Đức Tổng Giám Mục Địa Phận Huế, Nguyễn Kim Điền, tuyên bố trong một bức thư gởi cho Linh Mục Nguyễn Thế Vinh, Chủ Tịch Đại Hội Toàn Quốc Giáo Dân thân cộng tố cáo: " Ai cũng biết Lực lượng bành trướng từ phưong Bắc đã và đang tìm cách phá hoại đất nước chúng ta."
* Ngoài một thiểu số Linh Mục thân cộng, Cộng Sản Việt Nam chưa dụ dỗ hoặc ép buộc được một vị Giám mục Việt Nam nào làm tay sai cho họ trong ý đồ tổ chức một giáo hội Công Giáo Việt Nam tự trị.
* Tháng Tư 1984, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền khẳng định với nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam: "Tôi phải tuân giử 1uật Giáo Hội của tôi, nên tôi không thể làm cách khác... Tức là tôi không thể chấp hành luật pháp của Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
* Cũng vào năm 1984 sở Bảo Vệ Chính Trị (SBC) của nhà nước CSVN đã có những hành động phá hoại Giáo Hội Công Giáo Việt Nam như sau:
+ Hốt gọn các Nhà Dòng ở Thủ Đức, trong đó có Dòng Chúa Cứu Thế;
+ Hốt Dòng Tên ở Sài Gòn;
+ Hốt Dòng Providence ở Cần Thơ.
Trong những năm trước đó, Cộng Sản Việt Nam cũng đã có những hành động tương tự đối với các tôn giáo khác:
+ Hốt sạch Nhóm Phật Giáo Hòa Hảo năm 1981;
+ Hốt sạch Nhóm Cao Đài năm 1982;
+ Hốt sạch một số mục sư và tín hữu Tin Lành năm 1983.
Và cũng trong năm 1983, Cộng Sản Việt Nam tấn công thêm vào thành trì của Phật Giáo. Sài Gòn sôi nổi về vụ Hòa Thượng Trí Thủ chết bất đắc kỳ tử, và vì phẩn uất trước việc Cộng Sản Việt Nam bắt giam Ni cô Trí Hải, Đại Đức Thích Tuệ Sĩ và Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thác.
* Sau 30 - 4 - 75, 31 Linh mục tại Long Xuyên bị chính quyền cộng sản buộc phải ngưng thi hành chức vụ. Một số các Linh mục khác bị bắt, như Linh Mục Chu Quang Tào, Linh Mục Vũ Tuấn, Linh Mục Vũ Trọng Trí, Linh Mục Văn Chi, v. v.
* Ngày 8 - 6 - 88, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền đột ngột từ trần một cách bí mật. Ngài đã bị Việt Cộng giam lỏng trong nhiều năm vì công khai chống lại chính sách đàn áp tôn giáo của Cộng Sản Việt Nam:
+ Ngày 15 - 4 - 77, Ngài phát biểu trong buổi họp của Mặt Trận Tổ Quốc Bình Trị Thiên về việc Cộng Sản Việt Nam bắt giử sáu Thượng Tọa thuộc PGVN Thống Nhất, Ấn Quang ngày 6 - 4 77: "Tôi xin chia buồn và thông cảm với tôn giáo bạn, vì chính tôi cũng trải qua một cảnh tượng như vậy trong vụ Vinh Sơn". Trong buổi họp đó, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền còn cho biết thêm:
"Các lễ nghi bị hạn chế; các linh mục không được phép đi lại phục vụ đồng bào tại nhiều nơi như vùng kinh tế mới. Một số nhà thờ bị cấm làm lễ, hay bị chiếm... ".
" Trong hai năm qua, thú thật người công dân Công Giáo chúng tôi cảm thấy sao đâu, ở đâu, làm gì cũng bị nghi ngờ chèn ép. Học sinh ở trường thì cứ nghe những bài chống đối Công Giáo, mạ lị Công Giáo..."
" Tôi chịu lao tù và chết để bênh vực Nhân Quyền và Công Lý."
* Trong hai năm nay, Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận bị bắt buộc sống lưu vong và không cho phép về Việt Nam mặc dù Ngài là Phó Tổng Giám Mục địa phận Sài Gòn với quyền thay thế Tổng Giám Mục . Trước đó Ngài bị biệt giam tại miền Bắc VN và bị tước đoạt mọi quyền tự do căn bản cũng như quyền tự do hành đạo.
Trước năm 1975 và sau năm 1954, Giáo Hội Công Giáo miền Bắc Việt Nam đã bị đàn áp, ngăn cản, làm khó dễ đủ điều nhưng các vị giám mục, linh mục và tu sĩ cũng như giáo dân vẫn cương quyết kiên trì giử đạo và bất cộng tác với nhà nước CSVN.
* Trước tính hình Công Giáo, nói riêng, và các tôn giáo khác, nói chung, tức là toàn dân Việt Nam, đang bị áp chế tù đầy, không được hưởng cuộc sống an cư hòa bình và không được công lý bảo vệ dưới gông cùm của nhà nước Cộng Sản Việt Nam, không được quyền tự do hành đạo, giử đạo, nhân quyền và dân quyền bị vi phạm...
Văn Phòng Trung Ương Tông Đồ Mục Vụ Việt Nam Hải Ngoại đã đứng ra tổ chức Ngày Cầu Nguyện Hòa Bình và Công Lý cho Việt Nam. Đây là một hành động mà tất cả mọi người chúng ta đều ngưỡng phục và tri ân, vì đây là dịp để các tôn giáo liên kết với nhau để cầu nguyện các Đấng Tối Cao giúp cho quê hương Việt Nam cùng các giáo hội sớm đạt được một đời sống hòa bình, tự do, công chính và đạo đức, và cũng là dịp để các tôn giáo nói lên tinh thần đoàn kết và huynh đệ giữa các anh em đồng bào trong và ngoài nước để cùng bắt tay tranh đấu cho nhân quyền, Tự Do Tín Ngưỡng và Công Lý cho dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam và các tín đồ các tôn giáo đã bị.
Ngày thứ bẩy 28 tháng 9 năm 1992, một Đại Hội Thống Nhất Phật Giáo đã được tổ chức tại San Jose, California, Hoa Kỳ, với hàng ngàn người tham dự. Theo lời tiết lộ của Ban Tổ Chức, thì tại Việt Nam hiện có 5 nhà sư đã tình nguyện tự thiêu để phản đối nhà cầm quyền CSVN về sự đàn áp tôn giáo và sang đoạt tài sản giáo hội của họ. Họ cũng lên tiếng yêu cầu CSVN phải thi hành những đòi hỏi của Hòa Thượng Huyền Quang và đặc biệt phải chịu trách nhiệm về an ninh của cựu Phi Công Trung Úy Lý Tống và những người bị bắt bớ, giam cầm trái phép khác.
Ngoài hai tôn giáo chính là Công Giáo và Phật Giáo bị CSVN đàn áp, bách hại thô bạo, các tôn giáo khác như Tin Lành, Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài… cũng bị chung số phận. Lịch sử của đảng Cộng Sản Việt Nam và Lịch sử Cận Đại Việt Nam là một ấn tích, một cáo trạng ghi rõ tội đồ của những người Cộng Sản Việt Nam đối với dân tộc, tổ quốc và các tôn giáo. Nhưng, như bất cứ một bạo quyền nào, Cộng Sản Việt Nam cũng sẽ bị cáo chung hoặc bị tiêu diệt. Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế đang băng hoại, sụp đổ khắp nơi. Sau Đông Âu và Liên Sô, chắc chắn phải là Cộng Sản Việt Nam, Trung Quốc, Cuba, Bắc Hàn... Chúng tôi thành târn ghi nhận công sức của Đức Thánh Cha, của Giáo Hội Công Giáo trong tiến trình làm biến đổi tình hình thế giới hiện nay. Chúng tôi kính xin Đức Thánh Cha, anh ern Công Giáo, đặc biệt là anh em Công Giáo Việt Nam hãy tiếp tục cùng chúng tôi cầu nguyện để cho toàn nhân loại nói chung và đất nước Việt Nam, nói riêng, sớm được giải thoát khỏi chế độ phi nhân cộng sản, đúng như lời tiên báo năm 1917 tại Fatima.

Chủ Nhật, 19 tháng 9, 2010

VIET CONG HO CHI MINH PHAI SAM HOI DEN TOI LAM TAY SAI NGOAI BANG TAN PHA QUE HUONG GAN 30 NAM

VC PHAI SAM HOI VA DEN TOI
Nhân ngày 30-04, ngày tang thương của dân tộc, Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng kiêm Tổng thư ký Viện Hóa đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, viết bài “Sám hối là phương cách duy nhất xóa ngày tang thương 30-04” gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến.
Sau đây là toàn văn bài viết của Thượng tọa Thích Viên Định :
SAM HỐI LA PHƯƠNG CACH DUY NHẤT XOA NGAY TANG THƯƠNG 30.4
Trong một thế giới đầy xung động luôn có những sự tranh chấp. Có nhiều phương cách để giải quyết các cuộc tranh chấp. Thời kỳ hoang dã, hai bên thường giải quyết bằng bạo động; thế giới văn minh các bên có khuynh hướng giải quyết bằng thương thảo ôn hoà. Cùng bị chia đôi đất nước vì khác nhau ý thức hệ, nhưng 3 đảng Cộng sản của 3 nước đã có 3 cách hành động khác nhau. Cộng sản Đông Đức thì bắt tay, thương thảo với Tây Đức để thống nhất đất nước trong hoà bình. Cộng sản Bắc Việt lại gây chiến tranh, huynh đệ tương tàn đến khi có kẻ thắng, người thua mới chịu thôi. Cộng sản Triều Tiên lại khác nữa, cứ để phần ai bên đó giữ, đợi xem rốt cuộc ai đúng ai sai, hạ hồi phân giải. Việt Nam thì khen Việt Nam anh hùng, vì thắng Mỹ, thắng Pháp; Thái Lan lại khen Thái Lan anh hùng vì tránh được cuộc chiến tranh đối đầu với phương Tây. Không biết ai đúng, ai sai, ai mới thật sự anh hùng? Ai gây tội ác với dân tộc?
Ông Võ Văn Kiệt, cố Thủ tướng Cộng sản Việt Nam, người có một phần trách nhiệm trong cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam, khi về già, ông đã có những nhận định rất khác lạ, nhưng nghe có vẻ chân thành, Ông nói rằng: “Trong chiến thắng 30-4-1975, nếu có một triệu người vui thì cũng có một triệu người buồn…”. Có lẽ, như cổ nhân thường nói: “Nhân tương tử kỳ ngôn dã thiện, điểu tương tử kỳ minh dã ai”, con người sắp chết, lời nói thật thà, con chim sắp chết, tiếng kêu thê lương. Có lẽ cuối đời, ông muốn quay trở về với ông bà, tổ tiên, không muốn đi theo Mác-Lênin nữa, vì ông đã thấy ra rằng, chủ thuyết Mác-Lênin đã sai lầm, nên thẳng thắn, mạnh dạn, dám nói lên sự thật, giống như ông Gorbachev đã can đảm thú nhận rằng: “Chủ nghĩa Cộng sản mà tôi (Gorbachev) phục vụ gần cả đời người, toàn là tuyên truyền lừa bịp. Người Cộng sản chúng tôi tin dùng những điều gian dối để che giấu sự thật”. Theo lời ông Võ Văn Kiệt thì tuy cuộc chiến kết thúc nhưng chỉ có người dân nửa nước là vui mừng, còn một nửa lại đau khổ. Ông Võ văn Kiệt, một đảng viên Cộng sản cao cấp, có công lớn trong cuộc chiến, làm đến chức Thủ tướng, là kẻ chiến thắng, nhưng ông đã nói như vậy, thì không một ai trong hàng ngũ lãnh đạo đảng Cộng sản hiện nay, có thể nói gì khác được. Thật vậy, chẳng có cuộc chiến tranh nào mà không gây điêu tàn cho đất nước đó, chẳng có cuộc chiến tranh nào mà không mang đến đau thương cho những người dân vô tội. Cuộc chiến Bắc Nam lại kéo dài gần 21 năm trời, tiêu tốn không biết bao nhiêu xương máu của binh lính hai bên, của đồng bào vô tội. Tổng kết gần 10 triệu người chết, nhà cửa tan hoang, ruộng vườn đổ nát, đất nước điêu tàn, dân tình ly tán… Cái hậu quả đau thương mất mát của dân tộc, đã kéo dài từ đó đến nay chưa dứt, không biết đến bao giờ mới hàn gắn được, chứng tỏ cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, do Cộng sản Bắc Việt gây ra, rõ ràng là sai lầm và thất đức. Nếu chỉ vì người dân một nửa nước vui mà lại gây cho nửa nước buồn, thì chi bằng bắt chước Cộng sản Triều Tiên, phần ai nấy giữ, có hay hơn không? Hay tốt nhất là bắt chước Cộng sản Đông Đức, bắt tay với Tây Đức, thống nhất đất nước trong hoà bình thì vui đẹp biết chừng nào!
Ai đã gây ra tội ác này? Ai là người phải chịu trách nhiệm? Ai là kẻ có tội với tổ quốc, với dân tộc Việt Nam?
Sau chiến thắng, 30-4-1975, về kinh tế thì Nhà cầm quyền Cộng sản đã áp dụng chủ thuyết vô sản Mác-Lênin để “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã hội Chủ nghĩa”. Ở miền quê thì quốc hữu hoá ruộng đất của nông dân đem gom vô hợp tác xã. Ở thành thị lại chủ trương đánh công thương nghiệp. Nhà máy, công ty, cửa hàng buôn bán của tư nhân đều bị trưng thu. Tiền bạc bị đổi theo chỉ tiêu mỗi gia đình chỉ được 200 đồng. Trong phút chốc, toàn dân trên cả nước đều trở thành vô sản. Chủ trương chuyên chính vô sản thiếu cạnh tranh nên không kích thích được nhu cầu phát triển khiến nền kinh tế cả nước dần đi đến kiệt quệ. Dân chúng, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, đau bệnh không thuốc thang, lại thêm chế độ hộ khẩu, công an trị… cuộc sống mất tự do, đau khổ, cơ hàn như địa ngục. Đến nỗi, năm 1986, Cộng sản đã phải khẩn cấp thay đổi chính sách: “Đổi mới hay là chết”.
Về chính trị thì với tư tưởng hận thù, Nhà cầm quyền đã bắt giam hàng triệu sĩ quan, công chức của Việt Nam Cộng hoà vào trại “tù cải tạo”. Qui chế trong trại tù lại tuân theo chỉ thị khắc khe tàn ác của Thủ tướng Bắc Việt, Phạm Văn Đồng: “Chúng gây tội ác với dân tộc, cho chúng ăn ít, bắt chúng làm nhiều, đó là nhân đạo lắm rồi”. Vì bị đối xử tàn bạo, dã man nên không biết bao nhiêu quan chức chế độ cũ phải bị bệnh tật, chết chóc, trong các trại tù ở nơi rừng sâu, nước độc. Nhiều người phải liều mạng vượt biên, bằng ghe, bằng thuyền, băng rừng vượt biển cố thoát ra nước ngoài. Lớp chết trên rừng, lớp chết dưới sông, lớp bỏ mình ngoài biển cả, làm mồi cho chim cá… Thật là một giai đoạn đau khổ cùng cực cho dân tộc. Trong lịch sử Việt Nam chưa có thời nào như vậy. Cho đến nay, xã hội vẫn tiếp tục xuống cấp, các tệ nạn trộm cắp, bài bạc, xì ke ma tuý, tham nhũng hối lộ nhiều vô kể. Văn hoá suy đồi, đạo đức băng hoại…
Ai đã gây ra cảnh tượng đau thương này cho dân tộc? Ai mới thật sự là kẻ có tội với tổ quốc, có tội với nhân dân?
Năm 1861-1865, Hoa Kỳ cũng có một cuộc nội chiến giữa hai miền Nam, Bắc về vấn đề giải phóng nô lệ. Miền Bắc cũng thắng, Miền nam cũng thua và phải đầu hàng. Sau khi thảo luận giải quyết vấn đề giải giáp cho binh sĩ, hai bên cùng đồng ý rằng, sĩ quan miền Nam vẫn tiếp tục giữ nguyên cấp bực, còn binh lính miền Nam, ai muốn về nhà với gia đình thì về, ai muốn tiếp tục binh nghiệp, thì gia nhập vào binh đoàn miền Bắc. Không có trại cải tạo, không có trại tù. Nghĩa trang chôn chung binh sĩ hai miền, binh lính tôn trọng lẫn nhau. Đó mới là hoà bình, đó mới là thống nhất, thật đẹp đẽ biết bao.
Hơn cả thế kỷ trước mà Hoa Kỳ đã văn minh như thế. Vậy mà ngày nay, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn sống trong tư tưởng hận thù như thời kỳ man dã. Tại sao Cộng sản Việt Nam biết sao chép bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, như lời ông Bill Clinton, cựu Tổng thống Hoa Kỳ đã nói, nhưng lại không biết bắt chước cách đối xử hoà bình, thương yêu và bao dung cho nhau, như tướng Grant và tướng Lee của hai miền Nam, Bắc Hoa Kỳ đã làm sau khi cuộc nội chiến chấm dứt?
Ông Võ Văn Kiệt còn nói, “Yêu nước cũng có nhiều cách yêu nước”. Không phải như lời tuyên truyền nhồi sọ của Nhà cầm quyền Cộng sản rằng, “yêu nước là yêu Xã hội chủ nghĩa.” Ngày nay chỉ còn vài nước theo Xã hội chủ nghĩa, vậy người dân của hàng trăm nước theo chế độ tự do, dân chủ trên thế giới thì không biết yêu nước hay sao? Các Nhà cầm quyền độc tài đã lợi dụng vấn đề yêu nước như một phương tiện để khủng bố, đàn áp người dân, quyết giữ độc quyền lãnh đạo, vì quyền lợi của bè đảng phe nhóm riêng tư.
Có nhiều cách để giải quyết vấn đề khác biệt về lập trường và tư tưởng. Nhất là đối với người dân trong một nước. Cùng là đồng bào, cùng là bà con, thân thuộc với nhau, tại sao lại phải tương tàn, tương sát nhau chỉ để giải quyết vấn đề tư bản và Cộng sản mà phải gây ra bao khổ đau, tan nát? Thật là một sự vọng động và sai lầm quá lớn!
Ngày 30-4-1975, ngày chấm dứt chiến tranh hai miền Nam Bắc, lẽ ra là một ngày vui, lại trở thành một ngày buồn, ngày đất nước rơi vào thời kỳ tăm tối, gia đình ly tán, quê hương tan nát, dân tộc chia lìa. Ngày chấm dứt chiến tranh lại là ngày đất nước rơi vào thể chế độc tài độc đảng theo chủ thuyết ngoại lai sai lầm làm cho nhân dân mất hết tự do, dân chủ, nhân quyền như thời kỳ phong kiến, thực dân, hoang dã. Bạo lực chỉ thâu tóm được đất nước nhưng không thống nhất được lòng người.
Nhu cầu tự do, dân chủ và hoà bình là nhu cầu chung cho mọi người trên thế giới. Đã bước qua thế kỷ 21, một thế kỷ mà các nước trên thế giới đang hướng đến tự do và phát triển về mọi mặt, vậy mà người dân Việt Nam vẫn sống bên lề xã hội văn minh. Việt Nam không có các quyền tự do tôn giáo, báo chí, đi lại, cư trú, lập hội… như qui định trong bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc.
Về vấn đề này, Đại lão Hoà thượng Thích Huyền Quang, từ năm 2000, lúc còn bị lưu đày ở Quảng Ngãi, Ngài đã viết thư yêu cầu Nhà cầm quyền Cộng sản: “Hãy lấy ngày 30-4-1975 làm ngày Sám hối và Chúc sinh toàn quốc” Ngài đòi hỏi: “Hãy trả Nhân quyền lại cho người sống và Linh quyền cho người chết”. Nếu được như vậy thì mới thật sự thống nhất đất nước, thống nhất lòng người, nhân dân được đầy đủ quyền tự do, dân chủ, tiếp đến sẽ đoàn kết dân tộc, cùng nhau chống ngoại xâm để cứu nước thoát khỏi nạn bành trướng Đại Hán nguy cấp hiện nay.
Thích Viên Định

Thứ Tư, 9 tháng 6, 2010

CHO SAN VIET CONG VA HO CHI MINH: 55 NAM TAN PHA QUE HUONG DAN TOC

35 Năm Quốc Hận: Tâm Tình Tháng Tư Đen PHẠM THANH PHƯƠNG . Việt Báo Chủ Nhật, 4/18/2010, 12:00:00 AM
35 Năm Quốc Hận: Tâm Tình Tháng Tư Đen - Phạm thanh Phương
Ba Mươi Tháng Tư, một ngày tang chung của dân tộc Việt, mặc dù thời gian đã trôi qua 35 năm tưởng chừng như một giấc mộng và sẽ phải mờ nhạt để chôn vùi theo thời gian. Tuy nhiên, khi nhìn vào thực trạng của đất nước, tất cả những tang thương đó lại trở về một cách đậm nét hơn, trộn lẫn với thực tại, để lòng người nơi viễn xứ thêm trăn trở, ưu tư và càng thấm thía hơn với cuộc đời lữ thứ. Chính vì thế, tưởng niệm ngày 30-4 không hẳn chỉ đơn thuần là một cái tang chung trong quá khứ, mà còn là một sự nhắc nhở nỗi uất ức, hờn căm của hiện tại, để làm hành trang đi tìm một con đường rửa hờn cho dân tộc và rửa nhục non sông.
Trong những ngày cuối tháng tư, bầu trời dường như u ám hẳn ra như một niềm giao cảm của trời đất để chứng tỏ "Cảnh cũng biết chiều lòng người", những tấm lòng còn nặng tình với quê hương, dân tộc... Cũng vào trong những ngày cuối tháng Tư, ký ức đã trỗi dậy để những hình ảnh xưa cũ lại hiện về một cáct tất rõ rệt như một cuốn phim tài liệu với những tang thương, mất mát của một khúc quanh đen tối nhất của lịch sử Việt Nam. Những tiếng đạn pháo kích 122 ly, 130 ly tràn ngập thành phố, hoà lẫn với tiếng nghẹn ngào gọi nhau trong máu lửa... Máu, lửa, đạn, mìn lan tràn trên khắp nẻo quê hương, không gian như ngừng thở, những giọi nước mắt nghẹn ngào tiễn đưa một chế độ tự do, dân chủ trong giờ phút cuối cùng. Mọi người nhìn nhau ngơ ngác, ưu tư, sợ sệt, bên cạnh những nụ cười nham nhở của bầy dã thú đang say xưa trên những đống thịt vụn còn vương đọng máu tươi của dân lành vô tội...
Tất cả đã đến một cách quá bất ngờ, ngỡ ngàng tưởng chừng như là một huyền thoại, người người băn khoăn nhìn nhau tự hỏi, chúng ta bị mất thật rồi sao? Không thể nào! Không thể nào! Nhưng cuối cùng sự thật vẫn là sự thật. Một sự thật phũ phàng mà tất cả đều phải chấp nhận từ giã những gì thân thương nhất của đời người với những chữ tự do, dân chủ và tình yêu nhân bản, để lầm lũi dắt díu nhau đi vào ngưỡng cửa địa ngục trần gian mà CSVN đang mở rộng... Cũng ngay trong lúc ấy, những phét lác lừa bịp, dồn dập phơi bày một cách trơ trẽn, rõ rệt trên những khuôn mặt lạnh lùng sắt máu. Cuộc sống ấm no của người dân miền Nam đã thực sự được thay thế bằng những đói rách lọc lừa bên củ khoai, củ sắn... Khốn khổ, sợ sệt, thanh trừng, cướp bóc, trả thù, đã đưa người dân miền Nam đi từ hốt hoảng, sợ hãi đến kinh tởm... Lúc này tất cả mọi người đều biết rằng, chẳng còn con đường nào tốt hơn là tìm cách ra đi. Từ đó, phong trào vượt biên bắt đầu khởi sự và tự điển thế giới đã vinh dự thêm được hai chữ "Thuyền nhân", hai chữ thân thương được kết tinh bằng sự chia ly mang đầy máu và nước mắt của cuộc đời.
Người ta thường nói "Cây có cội, nước có nguồn", thực sự không ai muốn rời bỏ quê hương mình, nơi đã chứa dựng biết bao nhiêu dấu ấn của tình tự quê hương, nơi đã chứa đựng biết bao nhiêu xương máu của dân tộc với dòng lịch sử oai hùng dựng nước và giữ nước. Không ai muốn bỏ lại gia đình, bạn bè, làng xóm, mồ mả tổ tiên và tất cả những gì thân thương nhất trong cuộc đời. Khi bước chân ra đi, tất cả đều hiểu chắc chắn sẽ phải đối diện với bao nhiêu nghịch cảnh, nghiệt ngã tang thương như đói khát, cướp bóc, hãm hiếp và kể cả lưỡi hái của tử thần đang sẵn sàng chờ đón. Tuy vậy, vì không có gì qúy hơn hai chữ "tự do", nên đành phải chấp nhận "Cũng liều nhắm mắt đưa chân, để xem con tạo xoay vần đến đâu". Cũng trong thời ấy, một câu nói được truyền tụng trong dân gian như một câu kinh nhật tụng hay một lời tâm niệm "Một là con nuôi má, hai là má nuôi con, ba là con nuôi cá"... Đúng vậy, cả ba trường hợp trên đều được ứng nghiệm, có những người bị bắt tập trung trong hững trại tù với mỹ danh "cải tạo", có những con thuyền đã vĩnh viễn đi sâu vào lòng đại dương và cũng có những con thuyền lang thang mấy tháng trời trên biển cả, đói khát quằn quại và cuối cùng cũng may mắn cập bến tự do... Bao nhiêu tang thương chồng chất, con mất cha, vợ mất chồng, anh em mất nhau ,v,v.
Giờ đây, tất cả đã qua đi như một cơn ác mộng, còn lại chăng là những kỷ niệm như những vết thương loang lổ hằn sâu trong tâm hồn người lạc xứ, không biết bao giờ mới có thể lành lại... Chính vì vậy những người ly hương với danh nghĩa "Tỵ Nạn Cộng Sản" luôn hun đúc tình yêu nhân bản, quyết tâm tìm ngày trở về xây dựng lại quê hương, chia xẻ với quê hương và dân tộc tất cả những tự do, dân chủ và nhân quyền đúng nghĩa của nó đã gặt hái trên những mảnh đất "tạm dung". Cũng vì thế các phong trào đấu tranh tại hải ngoại vẫn tiếp tục không ngừng nghỉ từ 35 năm qua, mặc dù Việt cộng và Việt gian cũng đã nỗ lực rất nhiều trong sự xâm nhập đánh phá. Sự đấu tranh chống chế độ tàn bạo phi nhân của người Việt tỵ nạn tại hải ngoại không phải vì những hận thù của quá khứ như CSVN tuyên truyền, mà tất cả chỉ là của hiện tại. Một hiện tại khắc nghiệt, khốn cùng, phi nhân mà CSVN đang đè nặng trên đầu dân tộc... Đất nước mỗi ngày một tang thương hơn, uất nhục hơn. chủ quyền quốc gia đã và đang bị xâm phạm một cách trần trọng, đất biển bị mất, dân tộc lầm than, khủng bố, trù dập vẫn tiếp tục lan tràn trên khắp nẻo giang sơn. Trong khi đó, các phong trào đấu tranh trong và ngoài nước tuy bộc phát mạnh, nhưng cũng gặp nhiều trở ngại vì những thủ đoạn hèn mạt của CSVN và bè lũ tay sai nhiễu loạn. Trong nước, công cuộc đấu tranh cũng chưa kết hợp được sức mạnh hầu có thể tạo được phong trào thức ngộ lòng dân. Riêng tại hải ngoại thì Việt cộng, Việt gian cũng gia tăng xâm nhập lũng loạn dưới mọi hình thức. Tất cả như một chiến dịch, mong giảm thiểu đến triệt tiêu niềm tin nơi cộng đồng người Việt tỵ nạn. Một khi niềm tin đã hoàn toàn tàn lụi, lúc ấy sẽ biết cộng đồng tỵ nạn CS trở thành thần dân của chế độ phi nhân CSVN, để CSVN và bè lữ tay sai có thể thong dong kiện toàn "sự nghiệp" buôn dân, bán nước từ tên tội đồ Hồ Chí Minh để lại.
Trải qua 35 năm, những nỗ lực đấu tranh đã có chút thành tựu, những tiếng nói của lương tri mỗi ngày một cất cao như những tiếng vọng của tình yêu đã và đang trải dài trên khắp nẻo đường đất nước. Những hình ảnh tiêu biểu như Lm Nguyễn văn Lý, HT Thích Quảng Độ,v,v, đã và đang tiến bước trong niền tin và hy vọng của một tương lai tươi sáng cho dân tộc. Ngoài ra những sự kiện mang tính rộng lớn hơn như Thái Hà, Tam Tòa, Đồng Chiêm... cũng đã xuất hiện như một ánh sáng của niềm tin mặc dù kết quả chưa ai có thể nhìn thấy, nhưng chắc chắn những ánh sáng ấy không bao giờ có thể tàn lụi, mà ngược lại sẽ tiếp tục bùng lên cho đến khi thực sự tự do, dân chủ và nhân quyền được trở về để đưa chế độ phi nhân CSVN vào hố sâu đen tối của lịch sử.
Dựa trên những thành quả đấu tranh của đồng hương trên khắp thế giới, hy vọng ngày biểu tình chống cộng sản nhân dịp 35 năm Ngày Quốc Hận do Cộng Đồng NVTD tổ chức vào Chủ Nhật 2 /5 năm nay, số người tham dự sẽ đông hơn, khí thế hào hùng hơn mọi năm, hầu tạo được nền tảng vững chắc hơn cho những bước tiến trong tương lai trên con đường đấu tranh giành lại tự do, dân chủ, nhân quyền và bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ, biên cương.
PHẠM THANH PHƯƠNG

35 năm nhìn lại con người Việt Nam
Mẹ tôi đã ngoài 90 tuổi. Ở cái tuổi gần đất xa trời, giống như tất cả mọi người, trí nhớ của me tôi rất kém. Dẫu quên rất nhiều nhưng chỉ có 3 điều mà cụ bà đã kể cho tôi cách đây 40 năm vẫn còn như in trong óc cụ. Mới cách đây một tuần sự lập lại ba câu chuyện nọ cho tôi nghe là một chỉ dấu cho thấy ảnh hưởng của nó trong cuộc đời cụ sâu đậm đến nỗi thời gian vẫn chưa xóa nhòa được trong tâm người. Trong ngày tưởng niệm 35 năm Quốc Hận 30/4/2010 năm nay, trước biết bao đổi thay về xã hội lẫn con người VN thời nay, ba câu chuyện mẹ vừa kể đã giúp tôi mường tượng được phần nào bức tranh xã hội VN và con người VN thời trước để suy ngẫm về nguyên nhân nào đã dẫn đến sự thoái hóa của xã hội và con người VN thời nay, về chính sách 100 năm trồng người của Hồ Chí Minh và những hậu qủa của nó trên quê hương VN.
Câu chuyện đầu tiên nói về nạn đói năm Ất Dậu đưa đến hơn triệu cái chết. Tại làng mẹ tôi, sáng nào cũng có ít nhất hai chiếc xe thổ mộ đi nhặt xác người chết đói dọc đường. Mẹ tôi không bao giờ quên được hình ảnh một bà mẹ sáng nào cũng nấu sẵn một nồi cháo trắng để múc cho những người đói khát đi ngang qua nhà bà. Đoàn người tuần tự xếp hàng, không giành giật, không cãi vã, nối đuôi nhau kiên nhẫn chờ tới phiên mình để nhận được một muôi cháo trắng. Và điểm đặc thù của dân làng này là cho dù cả làng đang ở trong tình trạng đói khát, nhưng dân làng không nỡ quay mặt làm ngơ trước những trẻ thơ nằm lả trên vỉa hè bên cạnh xác mẹ cha vừa mới chết vì đói.
Câu chuyện trên cho tôi nhìn thấy một điều là, dẫu dân làng đang ở trong hoàn cảnh đói khát sống qua ngày nhưng trái tim nhân bản của người dân Việt thời đó vẫn còn đầy, còn biết động lòng thương người nên mới nhịn chút phần ăn của mình để cứu vớt các em bé vừa mồ côi đang hấp hối dọc đường. Giờ đây, trong bối cảnh xa hoa phù phiếm của xã hội VN thời nay, lại xảy ra hiện tượng những con người VN đi lùng các trẻ mồ côi sống lây lất đầu đường xó chợ đem về làm “con nuôi”. Họ nhẫn tâm bẻ tay chân hay đâm mù mắt các em rồi bắt các em đi ăn mày đem tiền về nuôi họ sống trên sự tàn phế về xác thân lẫn tương lai đời các em! Đó là còn chưa kể tới những dịch vụ ăn mày mà trong đó những người mẹ ăn mày chuyên nghiệp tìm mướn những trẻ thơ con nhà nghèo, thản nhiên đày đọa các em trong mưa gió để khơi dậy lòng trắc ẩn du khách qua đường hầu xin được nhiều tiền. Đã có những bé bị chết vì sưng phổi sau vài ngày bị “mẹ hờ” địu trên lưng dầm mưa dãi nắng. Trẻ nào may mắn sống sót khi lớn lên nếu hên hơn thì sẽ tìm được công ăn việc làm nơi các hãng xưởng. Đa số thường bị các chủ nhân ông bóc lột sức lao động, hành hạ như nô lệ trước sự im lặng đồng lõa cuả nhà nước Cộng sản Việt Nam . Tuy nhiên thân phận những trẻ nói trên còn tốt số hơn những em khác bị các dịch vụ buôn người đem các em đi bán làm nô lệ tình dục nơi xứ người. Những hiện tượng dùng trẻ thơ như một phương tiện làm giàu phải chăng là kết qủa của chính sách 100 năm trồng người của Hồ Chí Minh mà qua đó nền giáo dục Xã hội Chủ nghiã Việt Nam đã hủy diệt lần mòn những mầm thiện và tình bác ái trong con người VN?
Câu chuyện thứ hai liên quan đến cung cách sống của người dân nghèo dưới thời bị trị hà khắc của thực dân Pháp. Có những người dân trong làng nghèo đến độ cả gia đình đều phải đóng khố chuối và chỉ mua được một chiếc quần để dành cho cả gia đình dùng chung khi có ai cần ra tỉnh hay lên huyện. Cho dù nghèo đến mấy đi chăng nữa nhưng lại ít xảy ra cảnh cha mẹ bán con, hoặc con gái tự bán mình để đổi lấy vật chất xa hoa phù phiếm.
Phong cách con người VN thời chưa bị Cộng sản nhuộm đỏ như thế đó. Dẫu sống trong hoàn cảnh túng quẫn thiếu vải che thân như “Trần Minh khố chuối”, nhưng dân làng vẫn cố “giấy rách phải giữ lấy lề”. Thời nay, những từ như “ tư cách, tự trọng” có lẽ ngày càng trở nên xa lạ nơi thiên đường Xã hội Chủ nghiã VN đày rãy những lừa lọc, bon chen đua đòi hưởng thụ vật chất. Hiện tượng hàng trăm cô dâu VN đứng trần như nhộng để cho đàn ông ngoại quốc sờ ngắm mua về vừa làm vợ và con ở đã trở thành chuyện bình thường. Sau khi sài thử nếu không vừa ý thì khách được quyền đổi lấy cô khác. Món hàng phụ nữ Việt qủa rẻ mạt và thua xa giá trị của cái tủ lạnh bán ngoài cửa hàng mà người mua dù không thích cũng không được quyền trả lại sau khi đã dùng nó. Khi phụ nữ VN thời nay chấp nhận làm món hàng đem rao bán, khi người chồng coi chuyện chở vợ mình đi làm nghề bia ôm, cũng như khi các nữ sinh, sinh viên hành nghề gái gọi v.v… thì hẳn nhiên đạo đức sẽ không còn chỗ đứng để nhường bước cho sự xa đọa đang đẩy xã hội VN ngày càng chìm sâu dưới vực thẳm tội lỗi.
Câu chuyện thứ ba là câu chuyện duy nhất mỗi lần kể lại giọng mẹ tôi run lên vì xúc động: Khi cuộc chiến giữa Pháp và các đảng phái quốc gia diễn ra ác liệt ở Hà thành, bố mẹ tôi đã trốn về quê lánh nạn và tạm trú ở nhà một đứa cháu trai. Trong suốt thời gian ở đó, ban ngày cậu ta uống rượu say mèm chờ mỗi khi chiều xuống thì sách mã tấu ra khỏi nhà và chỉ trở về lúc trời tờ mờ sáng. Thấy hành động quái dị của đứa cháu kéo dài liên tục cả tháng, ba tôi thắc mắc gạn hỏi mãi nhưng cậu ta vẫn không chịu mở miệng. Cho tới một hôm có lẽ vì men say nên đứa cháu mới khóc tiết lộ cho biết là bọn Việt Minh (tiền thân của đảng Cộng sản Việt Nam) đã ra lệnh cho cậu ta nếu muốn cha mẹ vợ con sống, thì khi màn đêm xuống phải đem những đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng ra giữa dòng sông chém đầu rồi vứt xác xuống sông để phi tang. Mỗi đêm ít nhất có khoảng một chục đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng bị hành quyết trên dòng sông. Và đó là lý do tại sao tên “đao phủ bất đắc dĩ” phải uống rượu cho say mèm trước khi đi . Đứa cháu nói với ba tôi rằng bọn Việt Minh rất tàn ác dã man không thể ở được với bọn chúng. Ba mẹ tôi nên tìm đường trốn vào Nam. Đứa cháu không trốn được vì sợ Việt Minh chặt đầu cả gia đình. Chỉ nội trong vòng một tháng kể từ ngày được cháu tiết lộ bí mật về tội ác tầy trời của Cộng sản Việt Nam (CSVN), bố mẹ tôi đã lấy quyết định “bỏ của chạy lấy người” di cư vào Nam năm 1954, bỏ lại sau lưng tài sản, quê hương và hình ảnh những cuộc đấu tố cải cách ruộng đất hãi hùng đã xảy ra cho người quen của mình …
Câu chuyện trên vẫn chỉ là một trong hàng nghìn bằng chứng khác xác nhận sự thật lịch sử tội ác CSVN, lột trần bản chất gian xảo thâm độc của những con người ác đã tiêu diệt hầu hết các đảng phái quốc gia đã từng là đồng minh của họ, cũng như dân tộc VN sẽ không bao giờ tha thứ tội ác tầy trời của Hồ Chí Minh đã nhẫn tâm bán đứng nhà ái quốc Phan Bội Châu cho Pháp để cướp công kháng chiến chống thực dân Pháp. Khi lương tâm không có chỗ đứng trong con tim lãnh đạo CSVN, những hành động bán nước buôn dân để thủ lợi tất không tránh khỏi. Đất đai, hải đảo của tổ tiên, Ải Nam Quan – niềm hãnh diện của lịch sử Tiên Rồng – lãnh đạo CSVN còn dám đem dâng cho Tầu cộng để trả ơn cho đàn anh đã giúp họ có được ngày 30/4/75 thì xá gì mạng dân đối với họ chỉ là một món hàng nô lệ béo bở tha hồ khai thác làm giàu trên sự khổ đau nhục nhã của dân tộc. Một quốc gia được điều hành bởi những kẻ lãnh đạo gian ác sẽ là môi trường lý tưởng cho sự phát triển ác tính trong con người dẫn đến bao thảm nạn cho quê hương dân tộc.
35 năm! Một phần ba đoạn đường “100 năm Trồng Người” của Hồ Chí Minh! CSVN đã trồng được những con người nào trên quê hương VN? Chỉ cần nghe ngôn ngữ thời nay là hiểu ngay thực tại đất nước và đạo đức con người VN thời nay đang đi về đâu: Nhìn đểu, khóc đểu, hàng đểu, đá đểu, yêu đểu, chơi đểu, xin đểu, bằng đểu, rượu đểu, người đểu, nhà trường đểu v.v… Và khi những từ như “Nhà cầm quyền đểu, nhà nước đểu, lãnh đạo đểu, dân chủ đểu…” đã trở thành câu chuyện đầu môi lưu truyền trong dân gian thì lời nhận xét đất nước VN đang ở trong thời kỳ Đồ Đểu qủa thật không ngoa chút nào ! Ôi! Nghe qua ngậm ngùi cay đắng làm sao!!
Trong ngày tưởng niệm 35 năm Quốc Hận 30/4/2010 năm nay, nhìn lại đất nước và con người Việt Nam đang ngụp lặn trong thế giới Đồ Đểu với thòng lọng Trung Cộng ngày càng “xiết đểu” họng dân tộc, là con dân nước Việt tất phải đau lòng uất hận. Muốn chấm dứt nền “dân chủ đểu” thì “lãnh đạo đểu” phải ra đi. Những nỗ lực đấu tranh theo kiểu hòa giải hòa hợp với “chế độ đểu” cũng vẫn chỉ là “đấu tranh đểu” mà thôi. Trong cuộc chiến chống lại cái ác ngày càng lan rộng trên quê hương VN, vũ khí duy nhất để chiến thắng cái ác là vung gươm trí tuệ nhân bản và hành động thánh thiện làm gương mở đường cho lương tâm và lòng nhân ái bừng tỉnh trong con mỗi con người VN. Khi nào người biết thương người thì những dòng nước mắt nhục nhằn khổ đau sẽ ngưng chảy trên những tuổi đời bất hạnh VN. Thời kỳ Đồ Đểu rồi sẽ qua nhanh nhường bước cho thời đại hoàng kim ấm áp tình người và niềm tự hào dân tộc.
Adelaide 27/4/2010
Nam Dao

VI